
TSKH Nguyễn Thành Long, Phó chủ tịch
UBCK
Đâu là những nội dung chính của dự thảo
Thông tư, thưa ông?
Hiện tại, những quy định, định hướng thiết
lập cho thị trường, đảm bảo sự phát triển TTCK phái sinh và công tác quản lý
Nhà nước đối với thị trường này về cơ bản đã đầy đủ. Vấn đề còn lại là chi tiết
hoá các định hướng này bằng thông tư hướng dẫn và các quy chế của Sở GDCK Hà Nội
(HNX) và Trung tâm Lưu ký chứng khoán (VSD). Dự thảo thông tư này đang được
UBCK khẩn trương hoàn thiện để sớm trình Bộ Tài chính ban hành.
Thông tư sẽ hướng dẫn 2 nội dung chính.
Thứ nhất, nội dung mang tính nền tảng là đưa ra các quy định cụ thể đối với các
tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán phái sinh; các thành viên giao dịch, thanh
toán bù trừ như: CTCK, công ty quản lý quỹ, ngân hàng cung cấp dịch vụ cho TTCK
phái sinh. Những quy định này sẽ đáp ứng các đòi hỏi của thị trường cả trong hiện
tại và tương lai.
Nội dung thứ hai liên quan tới sản phẩm.
Để bảo đảm quản lý tốt thị trường, ở giai đoạn đầu triển khai TTCK phái sinh, dự
kiến, chỉ có 2 sản phẩm phái sinh cơ bản là: hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số
và hợp đồng tương lai dựa trên trái phiếu. Trong giai đoạn tiếp theo, sẽ bổ
sung các sản phẩm khác theo mức độ phát triển của thị trường và theo nhu cầu của
thị trường, ví dụ quyền chọn, quyền chọn hợp đồng tương lai, hay các chứng
khoán phái sinh dựa trên các tài sản cơ sở khác không phải là chứng khoán.
Sản phẩm chứng khoán phái sinh là công cụ
để phòng ngừa rủi ro. Có ý kiến cho rằng, cổ phiếu mới cần phòng ngừa rủi ro
nhiều hơn, vì vậy, cần có hợp đồng tương lai dựa trên cổ phiếu, nhưng sản phẩm
đầu tiên dự kiến triển khai lại bắt đầu từ trái phiếu chính phủ (TPCP) - sản phẩm
gần như không có rủi ro?
Thị trường, NĐT cần hiểu rằng, hợp đồng
tương lai dựa trên chỉ số là công cụ phòng ngừa đa dạng, thích hợp cho tất cả mọi
cổ phiếu, danh mục cổ phiếu. Chứ nếu chứng khoán phái sinh mà chỉ dựa trên sản
phẩm cơ sở là một loại cổ phiếu, thì chỉ có tác dụng phòng ngừa rủi ro cho một
loại cổ phiếu đó và rất có thể không đủ thanh khoản để duy trì chứng khoán phái
sinh dựa trên các cổ phiếu đơn lẻ.
Nhiều người nghĩ rằng, chứng khoán phái
sinh của cổ phiếu nào thì mới phòng ngừa được rủi ro cho cổ phiếu đó. Tuy
nhiên, không hoàn toàn đúng như vậy, bởi giữa mỗi loại cổ phiếu và chỉ số trên
thị trường luôn có mối tương giao, chính là hệ số tương quan. Như vậy, hợp đồng
tương lai trên chỉ số hoàn toàn có thể phòng ngừa rủi ro cho từng loại cổ phiếu
đơn lẻ, thậm chí cả những cổ phiếu không nằm trong rổ chỉ số.
TPCP đương nhiên là công cụ có mức độ rủi
ro gần như bằng 0, nhưng đó là rủi ro thanh toán. Còn bản thân sản phẩm này vẫn
chịu những biến động về giá do sự thay đổi mặt bằng lãi suất. Do vậy, để phòng
ngừa rủi ro về giá, các tổ chức đầu tư vẫn cần những công cụ phái sinh. Hợp đồng
tương lai TPCP chính là câu trả lời cho vấn đề này.
Nhiều ý kiến cho rằng, sản phẩm chứng
khoán phái sinh chỉ dành cho NĐT tổ chức, chuyên nghiệp, chứ không thích hợp với
NĐT cá nhân nhỏ lẻ. Có đúng như vậy không, thưa ông?
Chứng khoán phái sinh không phải là công
cụ chỉ dành riêng cho NĐT tổ chức. Chúng tôi sẽ thiết kế các sản phẩm làm sao
cho phù hợp với NĐT tổ chức, cũng như đáp ứng nhu cầu quản lý rủi ro của NĐT cá
nhân.
Tuy nhiên, trước sự biến động mạnh của TTCK
Trung Quốc, một lần nữa cho chúng ta thấy rằng: cần có cấu trúc cơ sở NĐT vững
chắc dựa trên nền tảng những NĐT chuyên nghiệp, quản trị rủi ro tốt.
Ông đánh giá thế nào về mức độ sẵn sàng
của các thành viên thị trường trong triển khai TTCK phái sinh?
Đến thời điểm này, các thành viên rất chủ
động trong chuẩn bị gia nhập thị trường. Họ hiểu rằng, sự ra đời của TTCK phái
sinh là bước tất yếu của sự phát triển TTCK, để có được đầy đủ công cụ giúp NĐT
tham gia thị trường an toàn và bảo vệ được lợi nhuận của họ.
TTCK phái sinh là nơi cung cấp sản phẩm
để quản trị rủi ro tốt. Thiếu sản phẩm này là thiếu công cụ quản lý rủi ro.
Cùng với cơ cấu NĐT hiện tại nhỏ lẻ còn nhiều, tiềm lực chưa ổn định, thì rõ
ràng cần vượt qua nhiều thách thức để phát triển.
Đâu là cái khó trong quá trình chuẩn bị
ra đời TTCK phái sinh, thưa ông?
Đây là thị trường mới, nên khó khăn ở chỗ
phải thống nhất được nhận thức, hiểu thật rõ về sản phẩm cũng như hiểu thấu đáo
triết lý quản lý thị trường này từ các bài học kinh nghiệm quốc tế.
Để làm được điều này, công tác đào tạo,
cập nhật kiến thức cho cả cơ quan quản lý trong lĩnh vực tài chính và công
chúng đầu tư hiểu được khái niệm, mô hình hoạt động, vai trò, các ưu việt nổi
trội, cũng như các rủi ro tiềm tàng của chứng khoán phái sinh là quan trọng nhất.
Chúng ta không được phép bỏ qua các bài
học thất bại trên thế giới, những nguồn gốc phát sinh rủi ro có liên quan tới
TTCK phái sinh để thường xuyên hơn trong cập nhật hệ thống quy định pháp lý, bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của thị trường.
Với những bước chuẩn bị như trên, năm
2016, Việt Nam sẽ mở cửa TTCK phái sinh, thưa ông?
Tất cả các công đoạn chuẩn bị cho TTCK
phái sinh đều đang được tích cực triển khai đồng bộ theo đúng lộ trình. Các
công việc còn lại đang được UBCK cùng với VSD và HNX nỗ lực thực hiện, bảo đảm
theo đúng lộ trình là trong năm 2016, Việt Nam sẽ triển khai TTCK phái sinh.
Theo ước tính của UBCK, hiện
có khoảng 15 - 20 CTCK và gần 20 ngân hàng đủ điều kiện tham gia TTCK phái
sinh. Số lượng này là đủ cho thị trường khởi tạo. Thời gian tới, cùng với quá
trình tái cơ cấu nhằm tăng cường năng lực của các CTCK, sự phát triển của
TTCK phái sinh, thì số lượng CTCK đáp ứng đủ điều kiện cung cấp dịch vụ chứng
khoán phái sinh sẽ tăng. |
Hữu Hòe thực hiện
Theo Báo đầu tư
Các loại chứng khoán phái sinh Chứng khoán phái sinh là
chứng khoán quy định tại Luật Chứng khoán 2006 và Luật Chứng khoán sửa đổi
2010, bao gồm: - Hợp đồng tương lai; - Quyền chọn; - Hợp đồng kỳ hạn; - Các chứng khoán phái
sinh khác theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Đó là nội dung được đề cập
tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 42/2015/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị
trường chứng khoán phái sinh. Nghị định này có hiệu lực
từ ngày 01/7/2015. Cá nhân được tự do đầu tư chứng khoán
phái sinh Từ ngày 01/7/2015, tổ chức,
cá nhân được tự do đầu tư vào các chứng khoán phái sinh (CKPS) trên thị trường
CKPS, trừ các đối tượng sau (khi đầu tư phải đáp ứng các điều kiện nhất định): - Công ty chứng khoán. - Công ty quản lý quỹ. - Tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. - Doanh nghiệp bảo hiểm,
chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. - Tập đoàn kinh tế nhà nước,
tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc sở hữu 100%
vốn của doanh nghiệp nhà nước. Xem chi tiết điều kiện để
được đầu tư CKPS của các đối tượng trên tại Nghị định 42/2015/NĐ-CP. |
4,042
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN