Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa
lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong
đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc
đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và
Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi
chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng hải, sản
xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết
chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý, nhờ đó, có thể đặt
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Cụ thể:
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết
dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại
rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay
quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận
rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về
quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác,
không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của
Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát
(đời Tống, 1225), Đảo di chí lượccủa Vương Đại Uyên (đời Nguyên,
1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ
bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lụcviết
dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải
quốc đồ chícủa Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của
Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến
đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài
Trung Quốc.

|
Ông Nguyễn Đình Đầu,
Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam |
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt
Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút
ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản
đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của
Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương,
tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa,
Trường Sa là của Việt Nam.
Tất cả đều rất thống nhất với nhau.”
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để cố chứng
minh chủ quyền đối với hai quần đảo này.
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra
quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa,
rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa và phạm vi
cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần
đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không
phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương,
không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện
đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo
Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc
thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn
biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam
qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Dưới đầu đề "đo đạc bốn biển",
Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Biển
Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên
văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc"
như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới có
cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều
Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Nga, Nam Hải tức Biển Đông.
Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương vực"
Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc
tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô
Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc
khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và
kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần
tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng,
đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình
tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu
Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ
các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải
Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn
đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phái
Tây Đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập
chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung
Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du
hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì
trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách
du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào
các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài
liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được
biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa
chí, Trung Quốc gọi là phương chí-đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận..”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm
soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật
quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã
có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm
hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de
Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên
đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh
thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn
tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tại liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh
thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú
ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm
1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát
hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát
hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển
Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử
và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những
bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung
Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục
xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo
Hải Nam.”
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra,
bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường
Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp,
nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá
lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở
pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện,
khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong mấy
chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm hữu
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ quyền"
đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì lý do đơn giản
là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà nhà cầm quyền
Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa" chưa bao giờ là lãnh
thổ Trung Quốc.
Trong khi đó, các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam
không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự
chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các
quần đảo này.
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi
Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu
đã là lãnh thổ Việt Nam.
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ
XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam:
"giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn
mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được
phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt
Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa được vẽ từ năm
1490 trong Hồng Đức bản đồ. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại nam
nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng
Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn chủ quyền của Việt Nam
là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về
lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi
ông được triều bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng
Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Đáng chú ý, bộ sách này còn nêu rõ, Nhà
nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách
một quốc gia làm chủ.
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất,
lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi,
mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3
đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy
được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng,
thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm
mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về,
vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán
riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu
suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình
nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi
thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm
hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội
Hoàng Sa kiêm quản".
Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước
đó, như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan với thủy binh nhà Nguyễn.
Các sự kiện này chứng tỏ, thời ấy, nước ta đã rất chú ý tới việc kiểm soát trên
biển.
Rõ ràng, các tư liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm
hữu thật sự hai quần đảo này ít ra từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền của
bất cứ quốc gia nào.
Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
Theo VOV
7,062