Vì vậy, nhiều chuyên gia cho rằng để
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này thì cần sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành theo hướng không áp dụng án treo đối với
tội phạm tham nhũng.
Bỏ án treo đối với tội
phạm tham nhũng
Theo báo cáo của TANDTC, tỷ lệ án treo đối với án liên quan
đến tham nhũng là 36,5% (năm 2010), 37,1% (năm 2011), 30,2% (năm 2012). Việc tỷ
lệ các bị cáo phạm tội liên quan đến tham nhũng được hưởng án treo nhiều hơn
các loại tội phạm khác đã gây dư luận bức xúc.
Về vấn đề này, tại hội thảo “Rà soát hệ thống pháp luật của
Việt Nam trên tinh thần Công ước của Liên Hợp quốc về phòng, chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia (Công ước TOC)” do Bộ Tư pháp tổ chức vào sáng 16/10,
ông Nguyễn Văn Tùng (TANDTC) cho rằng, việc vận dụng pháp luật để cho tội phạm
tham nhũng được hưởng án treo là đúng (theo thống kê, số vụ không đúng chỉ chiếm
tỷ lệ 0,065%).
Đây là một trong những điểm bất cập của BLHS vì bị cáo phạm
tội liên quan đến tham nhũng phần lớn nguyên là người có chức vụ, quyền hạn nên
có nhiều tình tiết giảm nhẹ như phạm tội lần đầu, đã có thành tích xuất sắc
trong công tác, có nhân thân tốt; luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân... để Tòa phán quyết cho hưởng án
treo.
Ông Tùng đặt câu hỏi, các ưu thế về nhân thân như trên có đủ
để đương nhiên cho họ hưởng án treo hay không, trong khi tham nhũng ở nước ta
đã và đang được cho là quốc nạn?. Như vậy, việc cho tội phạm tham nhũng được hưởng
án treo rõ ràng chưa đáp ứng được điều kiện “không gây ảnh hưởng xấu trong công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Việc Tòa án áp dụng án treo chiếm 1/3 số
bản án tham nhũng đã làm tổn hại đến tính công bằng và hiệu lực của luật pháp,
tạo ra môi trường trong đó làm sai không bị xử lý, trừng phạt, không phải chịu
trách nhiệm.
Hơn nữa, việc đa số người phạm tội liên quan đến tham nhũng
được hưởng án treo là chưa phù hợp với yêu cầu của Khoản 4 Điều 11 Công ước
TOC. Từ đó, ông Tùng kiến nghị sửa BLHS theo hướng không áp dụng án treo đối với
một số tội phạm có tổ chức, đặc biệt là tội phạm tham nhũng, có tổ chức xuyên
quốc gia.
Ông Mai Bộ (Tòa án Quân sự Trung ương) cũng phân tích, việc
cho tội phạm (trong đó có tội phạm tham nhũng) hưởng án treo thường được cho
treo từ đầu, đồng thời với nó là cho hoãn, cho miễn chấp hành hình phạt, dẫn đến
việc chấp hành chưa được tốt. Bởi thế, ông Bộ đề xuất nên “cho treo lộn lại”,
hay gọi cách khác là “treo sau”, chẳng hạn một đối tượng bị tuyên 10 năm tù thì
phải chấp hành hình phạt 7 năm rồi “treo” 3 năm còn lại.
Siết chặt điều kiện
giảm thời hạn chấp hành hình phạt
Một nội dung khác được quan tâm là giảm thời hạn chấp hành
hình phạt. Theo BLHS, điều kiện để có thể được xét giảm lần đầu thời hạn chấp
hành các loại hình phạt (hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, phạt
tiền và hình phạt tù chung thân) bao gồm: điều kiện về thời gian (đã chấp hành
ít nhất là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình
phạt tù từ 30 năm trở xuống; 12 năm đối với tù chung thân), điều kiện về kết quả
cải tạo (phải có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc thành thật hối lỗi, nghiêm chỉnh
chấp hành nội quy, quy chế của trại cải tạo hoặc các chế độ cải tạo không giam
giữ, tích cực lao động, hàng quý và hàng năm được xếp loại cải tạo từ khá trở
lên), điều kiện về quản lý (phải được cơ quan thi hành án hoặc giám sát thi
hành án đề nghị).
Bà Lê Vân Anh (Bộ Tư pháp) đánh giá, việc xem xét giảm thời
hạn chấp hành hình phạt tù chủ yếu dựa vào thời gian chấp hành hình phạt thực tế
và thái độ cải tạo của phạm nhân chứ không dựa vào loại tội phạm bị kết án. Quy
định trên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của Công ước TOC về việc cân nhắc
tính chất nghiêm trọng của những tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước
khi xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án về những
tội phạm này.
“Trong tương lai, cần nghiên cứu để sửa đổi BLHS theo hướng
quy định thời gian chấp hành hình phạt thực tế để được xem xét giảm đối với những
người bị kết án về những tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia dài hơn so với người
bị kết án về những tội phạm khác” - bà Vân Anh bày tỏ.
Ngoài ra, trong trường hợp đặc xá, Nhà nước Việt Nam có
chính sách nghiêm trị đối với những kẻ tham gia vào các tổ chức tội phạm, phạm
các tội nghiêm trọng về ma túy, phạm tội giết người có tổ chức, mua bán người.
Mới đây nhất, Quyết định số 11251/2013/QĐ/CTN của Chủ tịch
Nước về đặc xá năm 2013 quy định các trường hợp không đề nghị đặc xá, trong đó
có các trường hợp giết người có tổ chức, đã có tiền án hoặc đã bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục hoặc trường giáo dưỡng mà bị kết
án phạt tù về các tội về ma túy, giết người, hiếp dâm trẻ em, mua bán phụ nữ,
mua bán trẻ em...
Có chuyên gia cho rằng, đây là chính sách cần tiếp tục được
duy trì và cần được bổ sung thêm để áp dụng đối với những kẻ hoạt động tích cực
trong các tổ chức phạm tội xuyên quốc gia.
Thục Quyên
Theo Pháp luật VN
3,542
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN