Ranh giới của hành vi
Để vay bằng được tiền của bà T., bà
M. hứa sau khi trả tiền ngân hàng sẽ bán nhà trả nợ cho bà T ngay (thực tế bà
M. vay tiền tiêu xài và cho bạn mượn lại) . Để bà T. tin tưởng, bà M. làm giả
hai hợp đồng ủy quyền có công chứng, nội dung là các đồng sở hữu nhà cho phép
bà M. toàn quyền bán nhà cho bà T. để trừ nợ… Năm 2010, hai bên ra phòng công
chứng ký hợp đồng chuyển nhượng nhà thì được biết căn nhà đã bị Tòa án kê biên
trong một vụ án liên quan xảy ra từ trước đó đã vài năm.

Quá bức xúc trước cách hành xử của
bà M., bà T. quyết định tố giác ra công an. Sau đó, Cơ quan Điều tra đã chuyển
hồ sơ sang Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp trao đổi theo hướng khởi tố bà M. về
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xem xét hồ sơ xong, Cơ quan Công tố
yêu cầu Cơ quan Điều tra làm rõ thêm ý thức chiếm đoạt của bà M. Tuy nhiên, Cơ
quan Điều tra vẫn giữ nguyên quan điểm khởi tố bà M.
Tiếp đó, Cơ quan Điều tra bất ngờ ra
thông báo không khởi tố bà M. vì việc vay tiền là quan hệ dân sự, bà M. không
có ý thức chiếm đoạt tài sản...
Có thể nói, không riêng gì vụ việc
vừa nêu trên, mà trong đời sống rất nhiều vụ việc tương tự đã và đang xảy ra hàng
ngày, hàng giờ. Thậm chí, để vay được tiền, bên vay có thể dùng mọi thủ đoạn
gian dối…
Tuy nhiên, theo Luật sư Nguyễn Văn
Khôi (TP.HCM) để xem xét các hành vi này có phải là lừa đảo hay không thì không
thể khẳng định ngay được vì hành vi cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
bao gồm: dùng thủ đoạn gian dối và thể hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác.
Bởi đây là dấu hiệu nhằm xác định
một đối tượng nào đó có phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hay không(?). Trong
trường hợp, nếu bên đi vay tiền mới chỉ có hành vi gian dối mà chưa thể hiện ý
định chiếm đoạt (tức là người vay có ý thức rằng sau khi vay rồi sẽ trả) nhưng
do làm ăn thua lỗ, gặp hoàn cảnh khó khăn… nên không trả được thì không cấu
thành tội phạm.
Thậm chí, nếu bên đi vay tuy lúc đầu
có ý định chiếm đoạt số tiền vay, nhưng sau khi thực hiện hành vi gian dối, người
này đã từ bỏ ý định chiếm đoạt thì cũng được coi là tự nguyện nửa chừng chấm
dứt hành vi phạm tội. Đối với tình huống này, thì được miễn trách nhiệm hình sự
về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Liên quan đến vấn đề này, cũng có ý
kiến của chuyên gia pháp luật cho rằng: Trong tình huống trên cần phân biệt: Nếu
người có hành vi gian dối sau khi vay được tiền đã sử dụng tiền đó vào các mục
đích khác (như phạm tội buôn lậu, đánh bạc, đưa hối lộ...) dẫn đến mất khả năng
trả nợ thì phải coi đây là hành vi chiếm đoạt tài sản của người cho vay;
Còn nếu người có hành vi gian dối
sau khi vay được tiền đã dùng số tiền đó đầu tư vào các lĩnh vực khác không đúng
với những điều khoản đã thỏa thuận với người cho vay trước đó (kể cả kinh doanh
hợp pháp và không hợp pháp) dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ thì cũng không
coi là chiếm đoạt.
Theo Luật sư Khôi, trong thực tiễn
có nhiều tình huống xảy ra mà muốn xác định chính xác hành vi đó cấu thành tội
danh gì thì phải xem xét từng trường hợp cụ thể một cách thấu đáo. Có thể, nếu
hành vi sử dụng tiền vay cấu thành một tội độc lập khác như tội “Sử dụng trái
phép tài sản” hoặc một tội danh nào khác thì họ (người vay) sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng đó.
Trường hợp nếu người có hành vi gian
dối sau khi vay được tiền rồi dùng số tiền đó kinh doanh hợp pháp nhưng do bị
thua lỗ, mất khả năng thanh toán nợ thì không coi là chiếm đoạt. Tuy nhiên, nếu
người vay bỏ trốn thì mới coi là hành vi chiếm đoạt tài sản đã xảy ra.
Thế nào là đòi nợ không phạm luật ?
Thực tiễn đời sống thường xuyên diễn
ra các hoạt động vay mượn tiền với nhau. Theo Luật sư Nguyễn Văn Khôi, việc thu
hồi tiền đã cho vay được thực hiện như sau: Nếu người vay tiền có hành vi gian
dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi tẩu tán tài sản, bỏ trốn...
nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản tiền vay vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả thì hành vi của người đó có dấu hiệu phạm tội
(tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản”).
Trong trường hợp này, người cho vay
tiền cần làm đơn tố giác gửi Cơ quan Điều tra, đề nghị tiến hành điều tra nếu
có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
theo quy định của pháp luật.
Nếu xảy ra vụ án hình sự thì khi xét
xử tòa án sẽ giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, theo đó người vay
tiền vừa bị giải quyết về vấn đề hình sự vừa phải bồi thường số tiền chiếm đoạt
cho người bị hại do hành vi phạm tội mà người vay tiền gây ra, theo quy định
tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Nếu người vay tiền không có dấu hiệu
phạm tội thì đây chỉ là giao dịch dân sự bình thường, việc không trả được nợ
đúng hạn là do nhiều nguyên nhân. Người cho vay tiền có quyền khởi kiện đến tòa
án có thẩm quyền để buộc người vay tiền trả lại tiền.
Đây là giao dịch vay tài sản không
có tài sản bảo đảm nên sau khi bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án tuyên
buộc bên vay phải trả tiền thì những tài sản của người vay (nếu có) sẽ
được Cơ quan Thi hành án Dân sự kê biên, phát mại để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
của người vay tiền.
Nếu tài sản của người phải thi hành
án đã được đem bảo đảm để thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác như: Đặt cọc, cầm
cố, thế chấp… thì Cơ quan Thi hành án Dân sự sẽ ưu tiên trả các khoản nợ có bảo
đảm, khoản tiền còn thừa mới được trả nợ cho những nghĩa vụ không có các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Luật sư Khôi cho biết.
Cũng có ý kiến cho rằng: Khi xảy ra tranh
chấp về nợ nần, nếu bản thân người cho vay (chủ nợ) tự đòi tiền theo kiểu “xã
hội đen” có thể sẽ bị xử lý hình sự về tội “Cướp tài sản” hoặc tội “Cưỡng đoạt
tài sản”.
Tuy nhiên, trong trường hợp vay tiền
được thực hiện dưới danh nghĩa “hùn vốn làm ăn”; thì việc đòi lại số tiền này
có thể xảy ra một trong hai trường hợp sau đây: Nếu khi giao, nhận tiền, hai
bên có lập thành văn bản, ghi mục đích của việc giao tiền là góp vốn kinh doanh
thì việc bạn rút vốn sẽ tùy thuộc vào thỏa thuận của hai bên (nếu có) hoặc theo
quy định của pháp luật; Nếu khi giao, nhận tiền, hai bên có lập thành văn bản,
trong đó ghi rõ mục đích của giao dịch này là “vay tiền” thì đây chỉ là giao
dịch vay và cho vay thông thường (không phải là việc góp vốn làm ăn chung).
Khó đòi tiền cho vay nếu không có
chứng cứ Trong một vụ việc dân sự, để đơn
khởi kiện được Tòa án thụ lý, phía nguyên đơn cần củng cố tài liệu chứng cứ liên
quan đến việc vay tiền, nhận tiền giữa hai bên. Theo đó, người khởi kiện vụ
án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án có thẩm quyền
giải quyết vụ án. Điều này có nghĩa, để đơn khởi kiện của được chấp
nhận, người cho vay phải có bằng chứng, chứng cứ thể hiện mối quan hệ vay
hoặc cả hai bên đều thừa nhận có khoản vay này. Đối với “các tài liệu nghe
được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu xuất trình kèm theo văn bản xác nhận
xuất xứ của tài liệu đó”. Trong trường hợp việc vay mượn giữa
hai bên không thiết lập hợp đồng, cũng không có giấy biên nhận mà chỉ có bản
ghi âm, thì để bản ghi âm này trở thành chứng cứ trong vụ kiện. Nội dung bản
ghi âm phải ghi nhận việc vay mượn giữa hai bên đồng thời người cho vay phải
xuất trình được văn bản xác nhận xuất xứ (ví dụ nếu ghi âm bằng điện thoại
thì phải được nhà cung cấp dịch vụ mạng cung cấp được cuộc gọi, thời gian...).
Nếu không xuất trình được thì bản
ghi âm này khó thể trở thành chứng cứ trong vụ án. Ngoài ra, nếu người vay không
thừa nhận đã cầm tiền, trường hợp này (phía nguyên đơn) phải xuất trình được
cả chứng cứ chứng minh người này đã cầm tiền của bên cho vay (như biên bản
nhận tiền...). |
Đăng Đạt – Lê Hiển
Theo phapluatvn.vn
72,515
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN