
Các vị khách mời trong buổi Tọa đàm. Ảnh:
VGP/Quang Hiếu
Tham
gia buổi tọa đàm có các vị khách mời:
- Ông Nguyễn Anh Tuấn- Cục trưởng Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính.
- Ông Phạm Đình Thi - Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính.
- Ông Võ Văn Quyền - Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước, Bộ Công Thương.
- Ông Ngô Trí Long-– chuyên gia kinh tế.
Dưới đây là nội dung buổi Tọa đàm.
Câu
hỏi đầu tiên xin được dành cho ông Nguyễn Anh Tuấn. Thưa ông, “giá điện tăng đột
ngột” là nhìn nhận của các chuyên gia kinh tế trên mặt báo những ngày qua. Quan
điểm của ông về nhận xét này?
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Thực hiện theo khung giá của Thủ tướng
Chính phủ và Quyết định 69 năm 2013 về điều chỉnh giá điện, theo đó các thông số
cơ bản quyết định giá điện có sự thay đổi mức độ tăng từ 7,5- đến 10 % thì EVN
xây dựng phương án giá trình Bộ Công Thương xem xét phê duyệt. Nếu biến động
tăng từ 10% trở lên Bộ Công Thương sẽ phê duyệt phương án gửi Bộ Tài chính thẩm
định trình Thủ tướng Chính phủ xem xét điều chỉnh.
Từ 1/8/2013 đến nay, giá điện đã giữ ổn
định. Trong hơn 1 năm, các thông số cơ bản đầu vào đã biến động tăng so với các
thông số đã quy định tại ngày 1/8/2013.
Trên cơ sở đó EVN đã lập phương án giá trình Thủ tướng điều chỉnh theo
quy định.
Ông
Ngô Trí Long: Hôm nay (16/3) đã bắt đầu thực hiện theo
giá điện mới. Cuộc tọa đàm này đáng lẽ phải có đại diện của EVN để nghe tiếng
nói của công luận cũng như của người tiêu dùng, nhà nghiên cứu.
Từ năm 2007 đến nay, giá điện đã tăng 7
lần và kể từ 16/3/2015 thì đây là lần tăng giá thứ 8. Lần này tăng biên độ tương
đối lớn so với các lần trước. Chính sự tăng cao như vậy đã gây bức xúc cho người
tiêu dùng. Bởi lẽ không phải người tiêu dùng không chia sẻ khó khăn với ngành
điện mà người tiêu dùng chưa đồng thuận vì sự minh bạch trong hoạt động của
EVN. Tất cả hoạt động của EVN hiện nay chưa thực sự có hiệu quả mà lại đổ lên
người tiêu dùng, đây là điều bất cập, khiến cho người tiêu dùng chưa đồng thuận.
Theo quan điểm của tôi, để tạo sự động thuận với người tiêu dùng, đề nghị mỗi lần
tăng giá điện phải có sự minh bạch rõ ràng hơn trong việc tính toán giá điện.
Việc
tăng giá điện là do tăng giá nguyên liệu đầu vào của điện như xăng-dầu, than,
khí, rồi việc chi trả việc chênh lệch lãi suất trong thời gian qua. Ở góc cạnh
thị trường thì là điều chấp nhận được. Tuy nhiên những chi phí khác như hao tổn
điện năng, năng suất lao động thấp mà nhân lực nhiều,… đã và đang được tính
toán vào giá điện. Cục Quản lý giá có thể cho biết thực trạng những chi phí này
trong giá thành điện như thế nào?
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Trong phương án điều hành giá điện vừa qua tăng
7,5% là thấp nhất, từ 1/8/2013 đến nay các thông số đầu vào theo báo cáo của
EVN đã thay đổi 12,8%, nhưng các cơ quan thẩm quyền chấp nhận 7,5% là thấp nhất
trong các phương án và đã tính đến tác động CPI. Mức độ đưa ra phương án tăng
7,5% phù hợp mặt bằng thị trường và yếu tố thay đổi thị trường các yếu tố đầu
vào. Vừa qua, Bộ Công Thương đã kiểm tra, kiểm toán giá điện công khai kết quả
này. Đây là bước công khai minh bạch để người tiêu dùng có thể giám sát được.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Quản
lý giá, Bộ Tài chính. Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Việc
khắc phục những hạn chế này đã được ngành Điện lập kế hoạch cụ thể và thực hiện
chưa, thưa ông?
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Chúng tôi nghĩ rằng EVN đã đã rất nỗ lực để
cải thiện việc này và trong giá thành công khai cũng đã rất chi tiết các yếu tố
cấu thành giá thành sản xuất điện.
Ông
Ngô Trí Long có bình luận gì thêm về vấn đề này không, thưa ông?
Ông
Ngô Trí Long: Tính toán giá thành điện phức tạp vì hạch
toán từ trên xuống dưới. Cần có cuộc đại phẫu thuật, cơ quan chuyên môn kiểm
tra độc lập. Theo báo cáo kiểm toán và thanh tra, thì lý do ban đầu ngành Điện
làm ăn không hiệu quả, hay đầu tư ngoài ngành, năng suất kém, tổn thất lớn. Các
cái đó đưa vào giá thành, lỗ do chủ quan, quản trị kém, cuối cùng để người tiêu
dùng chịu thiệt. Vì vậy, để người tiêu dùng chấp thuận cần có cuộc “đại phẫu
thuật”, phải có các cơ quan tư vấn độc lập đủ chuyên môn mới giải quyết được.
Còn như hiện nay, EVN báo cáo, Cục Điều
tiết điện lực xem xét, còn cơ quan chức năng Bộ Công Thương phần lớn đứng về
nhà sản xuất và đơn vị độc quyền, ít khi về người tiêu dùng. Họ có những phát
ngôn ít được đồng tình ví dụ “giá điện tăng mọi người hưởng lợi” hoặc “không
tăng giá thì EVN phá sản”. Do đó các cơ
quan chức năng cần công tâm, cần phải có cuộc kiểm tra tổng thể, cần có nguồn lực
đầy đủ để xem xét chính xác sự việc.
Ông
có thể lý giải tại sao gần như cùng một lúc giá điện và xăng lại tăng như vậy,
trong bối cảnh nền kinh tế thời gian qua đang tận dụng triệt để độ ổn định để
phục hồi?
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Hiện nay giá xăng dầu đang điều hành theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước bám sát tín hiệu giá xăng dầu của
thế giới, đồng thời chúng ta đang điều hành theo Nghị định 83 của Chính phủ và
Thông tư liên tịch 39 của Bộ Tài chính và Bộ Công Thương. Như vậy ta đang bám
sát theo giá xăng dầu thế giới và ta điều chỉnh tăng hoặc giảm.
Có thể đây là sự trùng hợp trong tháng
3, giá xăng dầu thế giới có sự điều chỉnh tăng vào hôm 11/3 vừa rồi và ngẫu
nhiên rơi vào việc tăng giá điện vào 16/3. Tôi cho rằng việc điều chỉnh giá
xăng dầu và giá điện cần bám sát các tín hiệu của thị trường để có sự điều tiết
phù hợp. Qua theo dõi chúng tôi thấy việc điều chỉnh giá xăng dầu và giá điện ảnh
hưởng trực tiếp tới thị trường, đặc biệt là chỉ số CPI sẽ tác động vào tháng 3
và tháng 4 tới.
Riêng
về điều hành giá xăng được dư luận khá đồng tình, tuy nhiên, ông Quyền có thể
cho biết liệu còn khó khăn nào trong điều hành giá xăng hay không?
Ông
Võ Văn Quyền: Giá xăng dầu hiện nay đã hoàn toàn theo cơ
chế trị trường, giá phản ánh đầy đủ chi phí hợp lý hợp lệ và theo tín hiệu giá
thế giới.
Như đã biết, 70% hàng xăng dầu nhập thế
giới, quy định điều chỉnh rất rõ trong Nghị định 83 cũng như Thông tư liên tịch 39. Ví dụ mới
đây lẽ ra trong Tết điều chỉnh 2.400 đồng /lít, vừa rồi điều chỉnh 1.000 đồng/lít
nữa, theo thị trường thì phải tăng 3.500 đồng/lít. Ta sử dụng quỹ bình ổn như
van giảm sốc tăng giá, giảm thì tối đa, tăng thì cố gắng giảm sốc (chỉ điều chỉnh
chỉ điều chỉnh 1.600 đồng/lít).
Khi có lợi cho người tiêu dùng, sản xuất,
từ tháng 7/2014 đến nay rõ ràng đã có 15 lần điều chỉnh trong đó 14 lần giảm, mức
giảm 10.000 đồng/lít. Vừa rồi tăng 1.600 đồng/lít, tăng khoảng 10%, nhưng nhìn
chung xu thế giảm giá là chủ yếu, vẫn đang có xu hướng tác động có lợi cho sản
xuất.

Ông Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế. Ảnh:
VGP/Quang Hiếu
Ông
Võ Văn Quyền đánh giá thế nào về tác động của việc tăng giá một số mặt hàng
năng lượng (đặc biệt là giá xăng) đối với giá cả các mặt hàng đầu vào khác của
sản xuất, tiêu dùng và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp? Nhất
là tác động tới chỉ số CPI?
Ông
Võ Văn Quyền: Như mọi người biết xăng dầu là nguyên liệu
đầu vào cho tiêu dùng đầu-cuối. Tức là khi mua xăng xe để chạy, dầu đun nấu thì
sẽ tăng/giảm trực tiếp vào giá hoặc sẽ tăng đầu vào của các mặt hàng sản xuất
nông-lâm-chế biến-vận tải. Rõ ràng việc điều chỉnh giá tăng/giảm giá xăng dầu
tác động vào tăng/giảm giá của tiêu dùng đầu-cuối cũng như trung gian. Chính vì
vậy, Chính phủ theo tín hiệu của thị trường nhưng phải có điều tiết là ở chỗ
này. Không thể nhìn ngắn hạn 1-2 lần tăng giá trong quá trình điều hành giá của
liên Bộ cũng như của Chính phủ trong một thời gian dài đảm bảo không làm sốc nhưng
tính toán cân đối có lợi nhất cho người tiêu dùng nhưng vẫn phải theo tín hiệu
thị trường. Đây là nguyên tắc.
Nhìn
từ phía cơ quan thuế, có dự đoán nào tác động của việc tăng giá này đến nhiệm vụ
của ngành trong năm 2015 không?
Ông
Phạm Đình Thi: Tăng giá dầu, hay giá điện tác động đầu vào
sản xuất kinh doanh, lợi nhuận doanh nghiệp sẽ giảm. Dưới góc độ thu NSNN, khi
tác động đến sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh càng cao, lợi nhuận cao thu NS
tăng lên. Tuy nhiên, ở đây riêng với
xăng dầu việc tăng như đại diện Bộ Tài chính và Công Thương là do kiên
trì điều hành theo giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Do đó, biến động giá xăng dầu chủ yếu do
giá thế giới. Vừa qua, các quy định về điều hành xăng dầu đã công khai minh bạch,
điều chỉnh giá là tất yếu và phù hợp với mục tiêu kiên trì theo cơ chế thị trường.
Thưa
ông Võ Văn Quyền, việc tăng giá như thế này có tác động gì tới chỉ số CPI của nước
ta?
Ông
Võ Văn Quyền: Như
tôi đã nói, việc điều chỉnh giá xăng dầu là một trong yếu tố ảnh hưởng đến
tăng/giảm giá hàng hóa, thể hiện trong chỉ số CPI. Theo đánh giá của Tổng cục
Thống kê, trong chuỗi dài giảm từ tháng 7/2014, đặc biệt trong 4 tháng
(11,12/2014 và tháng 1,2/2015), nhờ giá xăng dầu giảm làm cho giá CPI chung giảm.
Cụ thể, tháng 2 giảm 0,05% trong đó nhóm GTVT, giá xăng góp phần vào 0,39% với
mức giảm riêng của nhóm đó là 4,41%. Còn tháng 1, mức giảm tác động vào trên
3,39% làm CPI tăng 0,2%.
Theo tính toán của Tổng cục Thống kê, việc
tăng giá xăng dầu lần gần đây nhất làm CPI tăng 0,03%. Rõ ràng giá xăng dầu
tăng/giảm tác động vào giá. Nhưng phải nói rõ ràng rằng, ở các nước hay Việt
Nam hiện nay tính CPI chung, trong đó có
đo lạm phát qua CPI chia làm 2 loại. Loại lạm phát tổng thể chung trong đó bao
gồm tác động của năng lượng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm. Nhưng đối với lạm
phát cơ bản thì loại trừ yếu tố giá năng lượng, xăng dầu, loại trừ giá lương thực,
thực phẩm tác động bởi mùa vụ, thiên tai khó đoán định để đo lạm phát cơ bản là
bao nhiêu. Trong trường hợp này ta thấy cuối năm vừa rồi cũng như 4 tháng liên
tục từ tháng 11 đến nay, chỉ số nhìn có vẻ âm nhưng lạm phát cơ bản vẫn là dương,
con số rất nhỏ vẫn trong sự kiểm soát của Chính phủ.
Dư
luận e ngại giá nhiều mặt hàng khác sẽ “tát nước theo mưa”- tăng lên, vậy Bộ
Tài chính có giải pháp gì để kiểm soát giá cả một cách hợp lý nhất, tránh tình
trạng “trên bảo dưới không nghe” như trường hợp giá cước vận tải mới đây?
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Ngay khi giá xăng dầu điều chỉnh theo thị
trường, cũng như tăng giá điện, Bộ Tài chính
đã có văn bản gửi UBND các tỉnh thành phố, bám sát mục tiêu theo Nghị
quyết 01 của Chính phủ. Trong đó có các giải pháp đưa ra như: thứ nhất, theo dõi
sát tình hình diễn biến giá cả một số mặt hàng mà Nhà nước xem xét định giá. Thứ
hai, các mặt hàng thiết yếu có sự biến động tăng thì có tham mưu bình ổn giá
theo quy định. Thứ ba, chỉ đạo các DN sản xuất có ảnh hưởng bởi tăng giá cần có
cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng xuất tiết giảm chi phí, giảm thiểu tác động.
Ngoài ra, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ
quan chức năng kiểm tra, kiểm soát chặt các phương án kê khai giá, kiên quyết
không cho việc điều chỉnh giá tăng theo giá điện và xăng dầu. Các cơ quan cần tăng
cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi tăng giá bất hợp lý thực hiện
bình ổn giá trên địa bàn.

Ông Võ Văn quyền, Vụ trưởng Vụ thị trường
trong nước, Bộ Công Thương. Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Trước
tác động của việc tăng giá năng lượng đầu vào, thì việc đảm bảo nguồn cung cho
sản xuất và tiêu dùng những mặt hàng thiết yếu không bị thiếu hụt cũng là một
giải pháp quan trọng để kiểm soát giá cả, lạm phát và đảm bảo tăng trưởng kinh
tế. Ông hãy cho biết những thông tin về vấn đề này?
Ông
Võ Văn Quyền: Thông thường lạm phát hoặc tăng CPI từ 2
nguyên nhân: Tăng chi phí đầu vào (chi phí đẩy) hoặc do cầu hơn cung, cung
không đáp ứng được cầu dẫn đến giá tăng, lạm phát tăng.
Như trên đã phân tích, tác động đầu vào
của xăng dầu vào lạm phát CPI. Trong nhiều năm gần đây, phần lớn do đẩy mạnh sản
xuất, tái cơ cấu, tín hiệu thị trường ngày càng tốt hơn nên cung-cầu đã gặp
nhau. Phần lớn các mặt hàng không có hiện tượng thiếu hàng sốt giá, nhất là
trong dịp Tết, dịp mùa vụ, chứng tỏ cung-cầu đã điều tiết theo thị trường hơn
và vai trò của điều hành của Chính phủ can thiệp bình ổn khi cần thiết đã thực
hiện tốt hơn. Ví dụ trong điều hành chung của liên Bộ, dự đoán thị trường, chương
trình bình ổn giá dịp Tết, hay gần đây, Chính phủ ráo riết xây dựng lại Luật Đầu
tư làm giảm chi phí cho DN, tạo động lực cho DN sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, ngoài việc tăng cường kiểm
tra, kiểm soát thì vấn đề vào cuộc thông tin, định hướng cho người tiêu dùng
tránh tình trạng “lạm phát kỳ vọng”, tức là đáng lẽ không lạm phát nhưng bởi bị
kích thích hoặc bởi thông tin, tuyên truyền chưa đáp ứng thì bị tăng giá mang
tính tâm lý, gọi là “lạm phát kỳ vọng”.
Bên cạnh công khai minh bạch trong điều
hành còn phải công khai minh bạch trong kết quả báo cáo kinh doanh của các DN
mà hiện nay đang phải kiểm soát. Quan trọng là công tác thông tin, tuyên truyền
vào cuộc của các phương tiện thông tin đại chúng, tôi nghĩ là rất cần thiết.
Được
biết mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng tăng nhưng đối với dầu hỏa vẫn giữ
nguyên trong khi tác hại, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường của xăng và dầu hỏa là
như nhau. Điều này lý giải ra sao, thưa ông?
Ông
Phạm Đình Thi: Thuế Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ
1/1/2012, trong đó, với mặt hàng xăng dầu là mặt hàng chịu thuế bảo vệ môi trường.
Như đã biết, hiện ta hiện nay sử dụng xăng lượng lớn và diện rộng, trong khi
đó, dầu hỏa chủ yếu để thắp sáng, vùng sâu xa do điện còn thiếu, do nhu cầu thiết
yếu người dân. Nên vừa rồi, UBTV Quốc hội quyết định không điều chỉnh giá với dầu
hỏa là hợp lý.
Thưa
ông, bài toán khó đảm bảo ổn định ngân sách đã ảnh hưởng tới quyết định tăng
thuế bảo vệ môi trường với giá xăng từ 1.000 lên 3.000 đồng/lít khiến dư luận
xôn xao rằng giá xăng dầu sẽ tăng và bày tỏ không tán đồng việc thuế này để phục
vụ bảo vệ môi trường chứ không để giảm thất thu ngân sách. Quan điểm của ông ra
sao?
Ông
Phạm Đình Thi: Ngày 10/3 vừa qua, UBTV Quốc hội đã biểu
quyết và thông qua sửa đổi theo đó thuế bảo vệ môi trường từ 1/5 sẽ tăng từ
1.000 đồng/lít lên 3.000 đồng/lít. Trước hết, Việt Nam hiện nay đang áp dụng
thuế nhập khẩu tối huệ quốc sau khi chúng ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới,
hay còn gọi là thuế nhập khẩu MFN, chúng ta cam kết trần là 40%. Theo đó, Nghị
quyết của UBTV Quốc hội ban hành với xăng dầu ở mức từ 0-40% và xăng hiện nay
đang áp dụng mức thuế nhập khẩu 35%.
Tuy nhiên, cùng với việc đó, các cam kết
về Hiệp định Thương mại tự do trong khối ASEAN từ 2011-2024 phải cắt giảm thuế
nhập khẩu. Cùng với đó là Hiệp định thương mại ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Hàn Quốc
chúng ta đều cam kết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu xăng dầu, chúng ta cắt giảm
kết thúc vào năm 2024. Tại thời điểm này, đối với mặt hàng xăng áp dụng thuế
35%. Nhưng thuế nhập khẩu với ASEAN- Trung Quốc, Hàn Quốc thuế nhập khẩu của họ
có 20%. Hiện nay khoảng cách đang là 5-35%, khoảng cách này ngày càng xa, càng rộng ra.
Hiện chúng tôi đã nhận được ý kiến của
Hiệp hội Xăng dầu gửi lên Bộ Tài chính cho rằng đối với xăng dầu nhập khẩu từ
các nước ASEAN khi có mẫu CO form D thì
các nước đang đề nghị 2 việc: Ký hợp đồng dài 1 năm hoặc đề nghị tăng giá xăng
dầu nên đề nghị tăng giá gây rủi ro cho nền kinh tế. Giá xăng dầu từ quý
III/2014 đến nay liên tục giảm và kiên quyết điều hành giá xăng dầu theo giá thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Như vậy, vấn đề đặt ra là cùng với giá
giảm xăng dầu thì có lợi cho nền kinh tế. Ta thấy rõ ràng đầu vào sản xuất kinh
doanh giảm sẽ tăng khả năng cạnh tranh của DN trong nước và trên thị trường thế
giới. Tuy nhiên khi giá giảm thì cầu sẽ tăng lên, xăng dầu là những mặt hàng
khi sử dụng gây tác động xấu tới môi trường nên đây là lý do khiến chúng ta cần
điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, hiện nay giá xăng dầu ở Việt
Nam so với các nước khu vực thấp hơn khoảng từ 1.000-7.000 đồng/lít xăng dầu vì
thế để hạn chế việc xăng dầu chảy qua các nước láng giềng, đảm bảo giá xăng dầu
Việt Nam tương đồng, tránh sự chênh lệch giữa các nước tránh buôn lậu.
Còn lý do hỗ trợ là hiện nay, chủ trương
của Chính phủ là sử dụng nguyên liệu sinh học, khi ta tăng thuế bảo vệ môi trường,
tạo sự chênh lệch giá giữa xăng hóa thạch và nguyên liệu sinh học sẽ khuyến
khích người dân sử dụng nguyên liệu sinh học. Với những lý do đó, tôi cho rằng
tăng thuế bảo vệ môi trường là phù hợp.
Thưa
ông, để bù lại việc tăng mức thuế bảo vệ môi trường nhằm ổn định giá xăng, liệu
từ 1/5, thuế xuất nhập khẩu xăng dầu có giảm xuống 20% hay không?
Ông
Phạm Đình Thi: Thuế môi trường hoặc thuế xuất nhập khẩu chỉ
là một trong các yếu tố cấu thành giá xăng dầu. Khi xét giá xăng dầu, phải xét
bài toán tổng thể của các sắc thuế. Nhưng như đã trình bày, do việc cam kết các
hiệp định quốc tế, nên cùng mặt hàng xăng dầu có thuế nhập khẩu khác nhau, gây
rủi ro cho ngân sách (NSNN), nên tôi cho
rằng việc điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường như vậy là hợp lý để tránh bất lợi
cho nền kinh tế. Giảm bao nhiêu phải tính toán cụ thể, chứ không phải hiệu lực thuế bảo vệ môi trường phải giảm thuế
nhập khẩu.

Ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính
sách thuế, Bộ Tài chính. Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Chúng
ta hãy trở lại với câu chuyện về giá điện để bàn thêm về tính phù hợp của giá
điện ở Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực? Ông Long có ý kiến gì về câu
hỏi này?
Ông
Ngô Trí Long: Hiện nay ta đang hội nhập ngày càng sâu.
Năm 2015 sẽ xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN, rất nhiều hiệp định thương mại tự
do sẽ được kí kết, trong bối cảnh kinh tế thị trường hội nhập sâu như vậy thì
giá trong nước phải hòa đồng với giá thế giới nên việc so sánh giá trong nước
và giá thế giới là cần thiết nhưng không phải mọi sản phẩm ta đều so sánh. Ví dụ
như xăng dầu đang nhập khoảng 70% so với lượng tiêu dùng thì cần phải so sánh với
giá thế giới. Nhưng ngành Điện lực ta còn độc quyền trên cơ sở nhất quán theo cơ
chế giá thị trường, nghĩa là trên thị trường cạnh tranh thì giá do thị trường
quyết định hoặc trên thị trường độc quyền thì giá do Nhà nước quy định theo sát
giá thị trường, Nhà nước phải bù đắp đủ chi phí hợp lý cho đối tượng sản xuất
kinh doanh đó đồng thời có mức lãi hợp lý thỏa đáng.
Vừa rồi giá EVN công bố là lên tới 8,5
cent/kWh chưa bằng giá trần của ASEAN (khoảng 9 cent/kWh), cách so sánh này là
khập khễnh. Điện lực là ngành độc quyền nên chi phí phải so sánh cụ thể. Hiện
nay việc nâng giá muốn thuyết phục người tiêu dùng, EVN thường dựa vào giá đầu
ra mà không tính toán giá đầu vào. Hiện nay so sánh giá đầu vào của chúng ta so
với các nước còn thấp. Lương của Giám đốc EVN không thể bằng khu vực được, năng
suất lao động, vấn đề bảo hiểm rủi ro trong quá trình dùng điện chúng ta không
có. Để dành lợi về phía mình EVN hay so sánh giá của chúng ta so với các nước ở
đầu ra mà không so đầu vào nên bất hợp lý.
Theo quan điểm của tôi trước kia ta dùng
cơ chế 2 giá, nước ngoài 1 giá, trong nước 1 giá. Chính vì thế không thu hút đầu
tư nước ngoài vào nên khi chúng ta quản lý chặt ngành Điện chi phí hợp lý, năng
suất lao động thấp, thủy điện nhiều, giá của chúng ta tương đối thấp so với nước
khác mà vẫn bù đắp đủ chi phí cho các ngành sản xuất kinh doanh điện, đồng thời
ta vẫn tuân thủ giá thị trường chắc chắn sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước
ngoài.
Hiện nay, Singapore giá 21 cent/kWh phải
chăng vì họ sử dụng nguyên liệu dầu, còn chúng ta 40% thủy điện, chỉ bằng 1/2
giá điện hóa thạch nên chúng ta không nên so sánh mà phải biết chia sẻ, nâng
cao năng suất lao động để giá bán điện thấp không những có lợi cho người dân mà
còn là điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài vào.
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Thời gian qua, việc xem xét giá điện EVN
chúng ta cũng đã có kiểm tra, kiểm toán và đã có công khai minh bạch về các yếu
tố cấu thành nên giá. Hiện nay, việc giá điện vẫn còn phải tiếp tục theo các
quy định của Thủ tướng Chính phủ, hiện nay trong cơ cấu giá thành còn khoản lỗ
từ 2010 và 2011 còn kết dư lại vẫn treo để hạch toán cho hết.
Vừa qua đánh giá các phương án giá, cho
thấy khi điều chỉnh tăng 7,5% giá điện
thì có một phần để EVN kết dư khoản lỗ
treo, theo lộ trình vẫn tiếp tục xem xét khoản này, phải thực hiện giá điện của
quyết định của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định 69 và khung giá bán lẻ theo
Quyết định 2156. Như vậy giá điện vẫn do Nhà nước xem xét quyết định trong giai
đoạn này.
Năm
2015 là năm mà ngành Điện tiến hành cổ phần hóa các tổng công ty phát điện
(GENCO). Nhiều lãnh đạo ngành điện nói giá điện thấp nên nhà đầu tư không mặn
mà tham gia mua cổ phần ở các GENCO. Việc tăng giá này liệu có sức hấp dẫn tới
đâu với các GENCO, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long dự đoán như thế nào về điều
này?
Ông
Ngô Trí Long: Hiện nay cổ phần hóa là chủ trương đúng đắn
của Nhà nước . Với ngành điện, một trong những nguyên nhân ngành Điện chậm phát
triển là do thiếu vốn, quản trị còn hạn chế dẫn đến hiệu quả chưa cao vì thế
đòi hỏi cấp bách hiện nay phải cổ phần hóa. Hiện nay nút thắt quan trọng nhất
là do giá điện quá thấp nên không cổ phần hóa được, theo tôi lý lẽ chưa thuyết
phục. Chúng ta đã hoạt động theo cơ chế thị trường với sản phẩm độc quyền nghĩa
là Nhà nước tính toán chi phí hợp lý, lãi hợp lý tuy nhiên điện hiện nay lãi tương
đối thấp. Trừ thủy điện lãi cao nên người người đua nhau xây thủy điện.
Điện lợi nhuận tương đối thấp nhưng mức
độ rủi ro không cao nên tương đối an toàn. Khó khăn hiện nay là quy mô vốn của
3 Tổng công ty phát điện này quá lớn nên không có nhà đầu tư nào hấp thụ được số
vốn này, hiệu quả đầu tư của lĩnh vực này còn hạn chế, cơ cấu bộ máy chưa hợp
lý, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Bên cạnh đó có những thuận lợi như Nhà
nước không nắm 100% vốn. Hiện nay Nhà nước đang tiến tới kiên trì thực hiện
theo cơ chế thị trường nên nếu đổ oan cho giá điện thấp mà không cổ phần hóa được
thì ta cần xem xét lại và tôi thấy lý do đó chưa thỏa đáng
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Về xem xét cổ phần hóa, chúng tôi nghĩ là
tiến tới trong bối cảnh tiếp cận giá điện thị trường, nhưng cần tính toán phù hợp
từng thời điểm. Đặc biệt là hiện nay, theo báo cáo của EVN giá điện tiệm cận
giá thị trường còn những khoản lỗ treo năm trước dồn lại. Khi khoản lỗ treo
thanh toán hết, giá điện sẽ thực hiện theo giá thị trường được, trong lúc đó sẽ
tiến tới xem xét các yếu tố tính toán cho phù hợp.
Giá
điện tăng đi kèm với việc hỗ trợ từ Ngân sách nhà nước cho các hộ nghèo cũng
tăng lên. Ông Nguyễn Anh Tuấn có thể ước con số mà nhà nước sẽ bỏ ra để bù
không? Và khả năng chi trả của ngân sách sẽ như thế nào trong thời gian tới khi
giá điện vẫn có thể tăng lên kịch trần?
Ông
Nguyễn Anh Tuấn: Hiện nay khi giá điện bình quân điều chỉnh
7,5% sẽ phân bổ đều vào các khung giá bán lẻ điện. Nhà nước vẫn chi ngân sách
an sinh với hộ nghèo dùng 30kW/h dùng đủ
50kW/h đầu. Nếu giá điện 50 kw đầu tăng 7 đến 7,5% thì ngân sách sẽ bố trí 153 tỷ đồng/năm. Để phục vụ an sinh xã hội thì Nhà nước luôn quan
tâm hộ nghèo có hỗ trợ giảm bớt khó khăn.
Nhóm PV
Theo
Chinhphu.vn
2,631