Nghị định đã bổ sung, sửa đổi các quy định về hồ sơ để giảm lượng hồ sơ, phù hợp với thông lệ quốc tế - Ảnh minh họa
|
Để thống nhất và đồng bộ trong công tác
quản lý chất lượng công trình xây dựng cả trong quá trình khảo sát, thiết kế,
thi công xây dựng, vận hành, khai thác, sử dụng và bảo trì công trình xây dựng
phù hợp với quy định của
Luật
Xây dựng 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định 46/2015/NĐ-CP về quản lý chất
lượng và bảo trì công trình xây dựng, thay thế Nghị định 15/2013/NĐ-CP
và Nghị định 114/2010/NĐ-CP.Với nhiều điểm mới, Nghị định
46/2015/NĐ-CP sẽ khắc phục được một số tồn tại, hạn chế như việc phân loại,
phân cấp công trình xây dựng chưa phù hợp; quy định về nghiệm thu công việc vẫn
chưa tạo bước đột phá nhằm giảm lượng hồ sơ không cần thiết; quy định bảo hành
công trình xây dựng còn cứng nhắc, gây khó khăn cho một số nhà thầu thi công
xây dựng công trình; chưa rõ các quy định, chế tài về xử lý công trình có dấu
hiệu nguy hiểm, công trình hết niên hạn sử dụng; thiếu các quy định về đánh giá
an toàn đối với các công trình quan trọng quốc gia...
Làm
rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu
Nghị định đã làm rõ thêm một số nguyên tắc
liên quan đến trách nhiệm của các chủ thể trong công tác quản lý chất lượng
công trình xây dựng như trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu tham gia hoạt động
xây dựng, trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn về xây dựng; phân định trách
nhiệm quản lý chất lượng công trình xây dựng giữa chủ đầu tư và các chủ thể
tham gia hoạt động đầu tư xây dựng…
Cụ thể, nhà thầu khi tham gia hoạt động
xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực theo quy định, phải có biện pháp tự quản
lý chất lượng các công việc xây dựng do mình thực hiện. Nhà thầu chính hoặc tổng
thầu có trách nhiệm quản lý chất lượng công việc do nhà thầu phụ thực hiện.
Chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm tổ chức quản
lý chất lượng công trình phù hợp với hình thức đầu tư, hình thức quản lý dự án,
hình thức giao thầu, quy mô và nguồn vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu
tư xây dựng công trình...
Các cơ quan chuyên môn về xây dựng sẽ có
trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý chất lượng của các tổ chức, cá
nhân tham gia xây dựng công trình; thẩm định thiết kế, kiểm tra công tác nghiệm
thu công trình xây dựng, tổ chức thực hiện giám định chất lượng công trình xây
dựng; kiến nghị và xử lý các vi phạm về chất lượng công trình xây dựng theo quy
định của pháp luật.
Phân định rõ trách nhiệm của nhà thầu
cung ứng sản phẩm xây dựng, vật liệu xây dựng; nhà thầu chế tạo, sản xuất vật
liệu xây dựng, cấu kiện và thiết bị sử dụng cho công trình xây dựng; nhà thầu
thi công xây dựng công trình; giám sát thi công xây dựng công trình và các nhà
thầu khác có liên quan.
Minh
bạch quy trình khảo sát, thi công, nghiệm thu, bàn giao công trình
Đối với công tác quản lý chất lượng khảo
sát, thiết kế, Nghị định đã quy định về trình tự quản lý chất lượng khảo sát
xây dựng, thiết kế xây dựng; quy định các nội dung quản lý chất lượng công tác
khảo sát, thiết kế xây dựng.
Đối với công tác thi công, nghiệm thu và
bàn giao công trình, thực tế tại một số công trình trọng điểm thời gian qua cho
thấy, công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình giám sát thi công còn hạn chế
đã dẫn đến nhiều sự cố đáng tiếc xảy ra như một số sự cố tại các công trình
giao thông trọng điểm trên địa bàn TP. Hà Nội, vụ việc sập giàn giáo tại tỉnh
Hà Tĩnh…
Do vậy, để quản chặt chất lượng thi công
xây dựng, minh bạch, chặt chẽ hơn trong từng quy trình, Nghị định đã quy định cụ
thể trình tự, nội dung quản lý chất lượng của các chủ thể trong quá trình thi
công xây dựng công trình từ công đoạn mua sắm, sản xuất, chế tạo các sản phẩm
xây dựng, vật liệu xây dựng, cấu kiện và thiết bị được sử dụng vào công trình
cho tới công đoạn thi công xây dựng, chạy thử và nghiệm thu đưa hạng mục công
trình, công trình hoàn thành vào sử dụng.
Ngoài ra, Nghị định đã sửa đổi, bổ sung
các thuật ngữ liên quan đến chất lượng công trình như quản lý chất lượng công
trình, kiểm định xây dựng, giám định chất lượng, giám định tư pháp xây dựng, người
quản lý, sử dụng công trình, thí nghiệm, quan trắc, chứng nhận hợp quy, thời
gian sử dụng công trình, …
Quy định còn thiếu về quản lý chất lượng
nhà ở riêng lẻ cũng được bổ sung. Theo đó, công tác quản lý chất lượng xây dựng
nhà ở riêng lẻ phải được thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm an toàn cho con người,
tài sản, thiết bị, công trình, các công trình lân cận và môi trường xung quanh.
Khuyến khích các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở riêng lẻ áp dụng
các quy định của Nghị định này để quản lý chất lượng xây dựng nhà ở riêng lẻ.
Bên cạnh đó, các nội dung về thí nghiệm
đối chứng, kiểm định chất lượng, thí nghiệm khả năng chịu lực của kết cấu công
trình trong quá trình thi công xây dựng cũng được làm rõ.
Giảm
lượng hồ sơ công trình
Hướng tới đơn giản hóa các thủ tục hành
chính, không gây khó khăn cho các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng, Nghị định
đã bổ sung, sửa đổi các quy định về hồ sơ để giảm lượng hồ sơ, phù hợp với
thông lệ quốc tế như cho phép ghép các công việc xây dựng cần nghiệm thu trong
một biên bản nghiệm thu, loại bỏ biên bản nghiệm thu nội bộ của nhà thầu, có thể
sử dụng thư kỹ thuật hàng ngày thay cho nhật ký thi công xây dựng…
Các thông tư hướng dẫn kèm theo Nghị định
dự kiến ban hành trong thời gian sắp tới sẽ có những quy định mới, chi tiết nhằm
đơn giản và giảm thiểu khối lượng hồ sơ khi nghiệm thu nhưng vẫn bảo đảm được
việc kiểm soát chất lượng trong suốt giai đoạn thi công xây dựng.
Giao
trách nhiệm cụ thể trong giải quyết sự cố công trình xây dựng
Nghị định cũng đã phân cấp trách nhiệm
trong báo cáo, giải quyết, giám định, thẩm quyền giải quyết sự cố và hồ sơ sự cố
không chỉ trong quá trình thi công xây dựng mà còn trong quá trình khai thác, sử
dụng công trình.
Cụ thể, khi xảy ra sự cố, chủ đầu tư và
nhà thầu thi công xây dựng công trình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp kịp
thời để tìm kiếm, cứu hộ, bảo đảm an toàn cho người và tài sản, hạn chế và ngăn
ngừa các nguy hiểm có thể tiếp tục xảy ra; tổ chức bảo vệ hiện trường sự cố và
thực hiện báo cáo theo quy định.
UBND các cấp chỉ đạo, hỗ trợ các bên có
liên quan tổ chức lực lượng tìm kiếm cứu nạn, bảo vệ hiện trường sự cố và thực
hiện các công việc cần thiết khác trong quá trình giải quyết sự cố.
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chủ trì giải
quyết sự cố công trình xây dựng và thực hiện các công việc sau: Xem xét, quyết
định dừng, tạm dừng thi công hoặc khai thác sử dụng đối với hạng mục công
trình, một phần hoặc toàn bộ công trình tùy theo mức độ và phạm vi sự cố; Xem
xét, quyết định việc phá dỡ, thu dọn hiện trường sự cố trên cơ sở đáp ứng các
yêu cầu bảo đảm an toàn cho người, tài sản, công trình và các công trình lân cận.
Hiện trường sự cố phải được các bên liên quan chụp ảnh, quay phim, thu thập chứng
cứ, ghi chép các tư liệu cần thiết phục vụ công tác giám định nguyên nhân sự cố
và lập hồ sơ sự cố trước khi phá dỡ, thu dọn; Thông báo kết quả giám định
nguyên nhân sự cố cho chủ đầu tư, các chủ thể khác có liên quan; các yêu cầu đối
với chủ đầu tư, chủ sở hữu hoặc các bên có liên quan phải thực hiện để khắc phục
sự cố.
UBND cấp tỉnh xử lý trách nhiệm của các
bên có liên quan theo quy định của pháp luật; căn cứ điều kiện thực tế của địa
phương, UBND cấp tỉnh có thể phân cấp cho UBND cấp huyện chủ trì giải quyết đối
với sự cố công trình xây dựng cấp III.
Về bảo trì công trình, Nghị định đã bổ
sung quy định về xử lý đối với công trình có biểu hiện xuống cấp về chất lượng,
không đảm bảo an toàn cho việc khai thác, sử dụng; quy định về xử lý đối với
công trình hết thời hạn sử dụng, công trình không xác định được niên hạn sử dụng
có nhu cầu sử dụng tiếp.
Ngoài ra, bổ sung các quy định về đánh
giá an toàn công trình trong quá trình khai thác sử dụng đối với các hạng mục
công trình, công trình xây dựng đối với các công trình quan trọng quốc gia,
công trình quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, ảnh hưởng đến an toàn cộng đồng phải
được tổ chức đánh giá định kỳ về an toàn của công trình trong quá trình khai
thác sử dụng.
Với những quy định mới, cụ thể hơn, Nghị
định sẽ góp phần nâng cao công tác quản lý chất lượng, bảo đảm công trình đưa
vào sử dụng sẽ đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Lê Quang
Phó Cục trưởng Cục GĐNN về chất lượng
CTXD
Theo Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
152,911