Luật
sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời
như sau:
Theo điểm a, khoản 1 Điều 111 và Điều
112 Bộ
Luật lao động, người lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng
lao động trong điều kiện bình thường, thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên
lương theo hợp đồng lao động 12 ngày làm việc.
Cứ 5 năm làm việc cho một người sử dụng
lao động thì số ngày nghỉ hằng năm của người lao động được tăng thêm tương ứng
1 ngày.
Theo Điều 6 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động, thì thời gian được coi là thời gian
làm việc của người lao động để tính số ngày nghỉ hằng năm (nghỉ phép) như sau:
- Thời gian học nghề, tập nghề để làm việc
cho người sử dụng lao động theo cam kết trong hợp đồng học nghề, tập nghề.
- Thời gian thử việc theo hợp đồng lao động
sau đó làm việc cho người sử dụng lao động.
- Thời gian nghỉ việc riêng có hưởng
lương theo khoản 1, Điều 116 của Bộ Luật lao động.
- Thời gian nghỉ việc không hưởng lương
nếu được người sử dụng lao động đồng ý nhưng cộng dồn không quá 1 tháng.
- Thời gian nghỉ do tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp nhưng cộng dồn không quá 6 tháng.
- Thời gian nghỉ do ốm đau nhưng cộng dồn
không quá 2 tháng.
- Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
- Thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn
theo quy định của pháp luật về công đoàn.
- Thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc
không do lỗi của người lao động.
- Thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công
việc.
- Thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng
được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm
tội.
Trường hợp bà Hoàng Ngọc Trinh đã được
công ty chấp thuận cho nghỉ việc không hưởng lương 3 tháng, căn cứ quy định tại
khoản 4, Điều 6 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP thì trường hợp nghỉ việc không hưởng
lương này của bà Trinh chỉ được coi là thời gian làm việc để tính số ngày nghỉ
hằng năm (nghỉ phép) tối đa không quá 1 tháng.
Theo Điều 7 Nghị định này, cách tính số
ngày nghỉ phép đối với trường hợp làm không đủ năm và có thời gian được coi là
làm việc như sau: Lấy số ngày nghỉ hằng năm cộng với số ngày được nghỉ tăng
thêm theo thâm niên (nếu có), chia cho 12 tháng, nhân với tổng của số tháng làm
việc thực tế cộng với thời gian được coi là thời gian làm việc, để tính thành số
ngày được nghỉ hằng năm; kết quả phép tính lấy tròn số hàng đơn vị, nếu phần thập
phân lớn hơn hoặc bằng 0,5 thì làm tròn lên 1 đơn vị.
Giả định, bà Trinh có thâm niên làm việc
dưới 5 năm, nếu có thời gian làm việc đủ 12 tháng trong điều kiện bình thường
được nghỉ 12 ngày phép; bà được Công ty đồng ý cho nghỉ việc không hưởng lương
3 tháng trong năm đó, thì thời gian nghỉ không hưởng lương chỉ được coi là thời
gian làm việc tối đa 1 tháng. Cách tính ngày nghỉ phép của bà Trinh như sau:
Số ngày nghỉ phép năm = 12 ngày/12 tháng
x (9 tháng làm việc + 1 tháng coi là làm việc) = 10 ngày
Đề nghị bà Trinh tham khảo các quy định
trên để đối chiếu với trường hợp cụ thể của mình..
Luật sư Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội
Theo Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
52,980
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN