Trong nhiều khó khăn mà
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và các tổ chức
tín dụng gặp phải khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm được Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) nêu ra trong Tờ trình số 192/TTr-NHNN ngày 17-12-2014, có những vướng
mắc thuộc về mặt luật pháp (thiếu luật) nhưng cũng có những vướng mắc do việc
áp dụng luật trên thực tế. Luật đủ và hợp lý nhưng người áp dụng luật “nghĩ
khác và làm khác” cho nên mới vướng.
Đầu tiên là chuyện tòa
án và việc áp dụng điều 144.5 của Bộ
luật Dân sự hiện hành. Điều luật này quy định người đại diện không được xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà
mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Nhiều tòa án đã dựa vào đây để cho rằng trường hợp người đại diện của
doanh nghiệp dùng tài sản cá nhân để bảo đảm nghĩa vụ cho doanh nghiệp do mình
đại diện nhằm vay vốn là trái pháp luật và do đó vô hiệu. Ví dụ, ông giám đốc A
của công ty X dùng nhà đất của mình để bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ vay của công ty
X đối với ngân hàng Y.
Thực ra quy định nói
trên là nhằm tránh trường hợp người đại diện trục lợi từ giao dịch được xác
lập, từ đó gây thiệt hại cho người được đại diện. Nhưng trong ví dụ trên, ngân
hàng và ông giám đốc mới là các bên có quan hệ đối ứng, ông giám đốc tham gia
giao dịch không phải vì quyền lợi của chính mình mà thực chất công ty X mới là
bên hưởng lợi từ giao dịch. Ngoài ra, sợ ông giám đốc có hành vi tư lợi thì
Luật Doanh nghiệp đã có những quy định nhằm kiểm soát giao dịch của các bên
liên quan, tức là một hợp đồng giữa ông giám đốc và công ty có thể phải được
hội đồng quản trị hay đại hội đồng cổ đông xem xét. Cho nên việc tòa án chỉ đơn
thuần nhìn vào bề nổi của điều luật, không nhìn vào bản chất của vấn đề, vội
vàng tuyên giao dịch bảo lãnh vô hiệu đã khiến cho khoản vay của ngân hàng Y từ
chỗ có bảo đảm trở thành không có bảo đảm một cách oan ức.
Tiếp đó là việc các văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất không chấp nhận giấy tờ chuyển nhượng do bên
nhận bảo đảm ký trong trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện ký các giấy tờ
này. Như trong ví dụ trên, một ngày nọ công ty X không trả được nợ, ông A cũng
không có tiền trả thay, ngân hàng Y quyết định bán nhà đất của ông A cho bà B
để trừ nợ nhưng ông A không chịu ký hợp đồng bán nhà và do đó, văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất đã không chấp nhận cho ngân hàng Y sang tên “sổ đỏ”.
Vậy luật nói ra sao về
trường hợp này? Điều 70 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định đại ý là nếu luật có quy định việc chuyển quyền sở hữu tài sản phải có
hợp đồng mua bán tài sản giữa chủ sở hữu tài sản với người mua tài sản thì hợp
đồng thế chấp tài sản được dùng để thay thế cho các loại giấy tờ này. Luật
không đòi ngân hàng Y phải nộp hợp đồng bán nhà do ông A ký thì cớ gì các văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất đòi phải có loại giấy tờ này cho bằng được?
Điều đáng nói là dù Nghị định 163 được ban hành từ năm 2006, các văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất vẫn phớt lờ quy định này.
Có lẽ vì vậy mà giữa năm
ngoái, NHNN phải chung tay với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN khẳng định lại quy định nói trên với hy vọng có sự tham gia của “bụt nhà” là Bộ
Tài nguyên và Môi trường, quy định này sẽ “thiêng” hơn với văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất địa phương!
Văn phòng công chứng
cũng tham gia vào quá trình “làm khó” ngân hàng xử lý nợ. Trên thực tế, nhiều
công chứng viên đã yêu cầu tổ chức tín dụng (ví dụ như ngân hàng Y) chỉ được ký
hợp đồng với tư cách là bên bán tài sản bảo đảm (hợp đồng bán nhà, đất của ông
A cho bà B) nếu có văn bản ủy quyền hợp pháp của chủ sở hữu tài sản (ông A) và
giá bán phải được sự đồng ý của chủ sở hữu. Trong khi đó, điều 58.4 của Nghị
định 163 quy định rõ rằng người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa
thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý tài sản bảo đảm mà không cần
phải có văn bản ủy quyền của bên bảo đảm; ngoài ra pháp luật cũng cho ông A và
ngân hàng tự do thỏa thuận cách thức xử lý nhà đất của ông A khi ông ta vỡ nợ.
VAMC là niềm hy vọng để
xử lý “cục máu đông” nợ xấu của ngành ngân hàng, “đả thông kinh mạch” cho nền
kinh tế. Tuy nhiên, khi VAMC bước những bước chập chững đầu tiên thì cũng là
lúc hệ thống pháp luật bộc lộ nhiều điểm cần hoàn thiện, ví dụ việc bán nợ cho
nước ngoài cũng cần có một văn bản riêng do NHNN ban hành chứ VAMC giờ muốn bán
cũng còn muôn vàn vướng víu.
Luật còn hổng thì có thể
bồi đắp, gia cố nhưng chừng nào các cơ quan công quyền còn áp dụng luật một
cách cứng nhắc, máy móc, sợ trách nhiệm đến mức vô lý thì chừng đó doanh nghiệp
còn gặp khó dài dài. Nhiều khi chúng ta không thiếu luật, chỉ thiếu người áp
dụng luật hiểu đúng luật, tôn trọng luật và biết nghĩ cho doanh nghiệp. Đây là
chuyện không phải của riêng VAMC và các ngân hàng.
LS.
Trương Hữu Ngữ
Theo
Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online
4,183
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN