Vay đầu tư phát triển là vay dài hạn. Trong khi đó vay từ quỹ dự trữ ngoại hối, nếu được phép, chỉ là ngắn hạn, bù đắp những thiếu hụt tạm thời do tính mùa vụ của thu ngân sách. Ảnh: Minh Khuê
|
Thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy rằng
khi NHTƯ có tính độc lập, theo nhiều khía cạnh, đối với chính phủ, thì họ cũng
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bình ổn giá cả. Bởi lẽ, sự độc lập cho phép NHTƯ cải
thiện được tính minh bạch, tính chịu trách nhiệm và tính khả tín trong việc thực
thi chính sách tiền tệ.
Thông thường, một NHTƯ độc lập sẽ công
khai các thông tin về bảng cân đối tài sản, đồng thời minh bạch định hướng và
phản ứng chính sách tiền tệ trong các tình huống khác nhau. Điều này không những
giúp các doanh nghiệp hay cá nhân trong nền kinh tế có thể lập kế hoạch dài hạn,
mà còn giúp tránh được hiện tượng “tiền tệ hóa” các khoản chi tiêu hay nợ công.
Hay nói cách khác, nền kinh tế tránh được việc NHTƯ tài trợ cho chi tiêu công bằng
cách in tiền, trực tiếp mua TPCP, hoặc giao dự trữ ngoại hối cho chính phủ sử dụng.
Ngoài ra, việc tiền tệ hóa các khoản chi
tiêu công còn có thể được thực hiện một cách gián tiếp thông qua việc NHTƯ mua
lại “vĩnh viễn” TPCP trên thị trường thứ cấp. Tức là, ban đầu để tài trợ cho
chi tiêu, chính phủ có thể bán trái phiếu cho các ngân hàng thương mại, quỹ đầu
tư... Sau đó, bằng cách này hay cách khác, NHTƯ sẽ mua lại vĩnh viễn trái phiếu
từ các tổ chức tài chính kể trên. Lưu ý rằng, việc mua lại TPCP này khác với việc
mua/bán TPCP diễn ra trên thị trường thứ cấp, hay còn gọi là nghiệp vụ thị trường
mở (OMO), để phục vụ chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ OMO là hoạt động mua bán
TPCP tạm thời/có kỳ hạn nhằm cung ứng thanh khoản và theo đuổi mức lãi suất, và
do vậy là tỷ lệ lạm phát mục tiêu.
Để đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia trong dài hạn, việc vay mượn của Chính phủ từ Ngân hàng Nhà nước nên được nghiên cứu và thể chế hóa thành luật. |
Nói tóm lại, việc NHTƯ cho chính phủ trực
tiếp vay tiền để chi tiêu thường là bị cấm. Trong một số trường hợp, nếu có được
phép thì hoạt động này cũng phải chịu sự giám sát và tuân thủ những nguyên tắc
nhất định. Ví dụ, chính phủ chỉ được phép vay một tỷ lệ nhất định so với tổng
thu ngân sách trong năm và phải hoàn trả vào cuối năm (ngắn hạn). Tức là mục
đích vay mượn là để bù đắp những thiếu hụt tạm thời do tính mùa vụ của thu ngân
sách, hoặc do tác động tạm thời của các chương trình cải cách tài khóa mà chính
phủ đang thực hiện.
Điều này hoàn toàn khác với những gì Việt
Nam đang đề xuất là vay để “đầu tư phát triển”, hay nói cách khác là vay dài hạn.
Ngoài ra, ở các nước trên thế giới, việc vay mượn này cũng không được phép nếu
nó được thực hiện để tài trợ cho các chính quyền địa phương hay doanh nghiệp
nhà nước.
Quan trọng hơn, dự trữ ngoại hối có được
nhờ thặng dư tài khoản vốn, như ở Việt Nam, không phải là thứ có thể đem ra để
chi tiêu hay cho vay.
Thu nhập của quốc gia kiếm được từ thế
giới bên ngoài được thể hiện qua tài khoản vãng lai, mà thành phần chủ yếu là
cán cân thương mại - cái mà Việt Nam luôn thâm hụt nặng nề trong nhiều năm qua.
Còn tài khoản vốn chủ yếu phản ánh dòng vốn ngoại vào tạm thời thông qua FDI, đầu
tư tài chính hoặc vay mượn nước ngoài.
Thặng dư tài khoản vốn hôm nay sẽ tương ứng
với sự sụt giảm lượng ngoại tệ trong tương lai khi các nhà đầu tư nước ngoài
chuyển lợi nhuận, cổ tức, tiền lãi, rút vốn đầu tư về nước, hoặc đơn giản là
khi các khoản vay nợ nước ngoài đáo hạn.
Do vậy, dự trữ ngoại hối có được nhờ thặng
dư tài khoản vốn chỉ là số tiền chúng ta đang “giữ hộ” các nhà đầu tư/ chủ nợ nước
ngoài. Một khi cán cân thương mại chưa được cải thiện thì sự gia tăng dự trữ
ngoại hối nhờ thặng dư tài khoản vốn cũng đồng nghĩa với việc nghĩa vụ thanh
toán quốc tế của quốc gia đó tăng lên trong tương lai.
Đây là lý do tại sao NHTƯ các nước luôn
phải tích trữ ngoại hối, gửi ở các ngân hàng hay mua TPCP ở những quốc gia có
tín nhiệm cao trên thế giới với lãi suất rất thấp, nhằm có được khả năng sẵn
sàng chi trả nợ nước ngoài, thanh toán nhập khẩu, lưu chuyển vốn quốc tế hoặc để
can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết. Dự trữ ngoại hối mỏng so với
nghĩa vụ thanh toán quốc tế không chỉ làm giảm tính khả tín của chính sách tiền
tệ và tỷ giá, mà còn có nguy cơ tạo ra các cuộc tấn công đầu cơ tiền tệ ở những
quốc gia theo đuổi chế độ neo tỷ giá như Việt Nam. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định
của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia trong dài hạn, việc vay mượn của Chính
phủ từ Ngân hàng Nhà nước nên được nghiên cứu và thể chế hóa thành luật.
Bộ
Tài chính bán 1 tỉ đô la Mỹ trái phiếu cho Vietcombank Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam (Vietcombank) đã hoàn tất giao dịch mua 1 tỉ đô la Mỹ trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 5-10 năm từ Bộ Tài chính với lãi suất xoay quanh 4,8%/năm, một
nguồn tin riêng nói với TBKTSG. Lãi suất 4,8% là tương đương
lãi suất trái phiếu quốc tế của Chính phủ mới bán ra cuối năm 2014. Mức lãi
suất này được thị trường đánh giá đáng mơ ước với một khoản đầu tư của ngân
hàng thương mại vì nó cao hơn lãi suất tiền gửi đô la Mỹ tại ngân hàng Việt
Nam khá nhiều. Có ý kiến cho rằng nếu Chính phủ đấu thầu công khai số trái
phiếu này thì có lẽ giá vốn thu về cho ngân sách sẽ rẻ hơn. Đây là lần đầu tiên Chính
phủ phát hành riêng lẻ trái phiếu bằng ngoại tệ cho một ngân hàng và với khối
lượng lớn. Nhưng vì sao phải phát
hành trái phiếu bằng đô la Mỹ mà không phải tiền đồng? Trước hết, là vì Chính phủ
cũng có những khoản chi tiêu bằng ngoại tệ và cần nguồn ngoại tệ. Thứ hai, Vietcombank luôn
dồi dào ngoại tệ nhất trong số các ngân hàng nội địa và đã có những ý kiến
cho rằng tận dụng nguồn ngoại tệ sẵn trong nước tốt hơn đi vay bên ngoài. Việc
này còn tránh được cú sốc tỷ giá so với việc chính phủ đi vay từ nước ngoài. Nếu số trái phiếu này được
phát hành bằng tiền đồng thì theo quy định Bộ Tài chính sẽ phải đấu thầu công
khai, trong khi đấu thầu trái phiếu tiền đồng đang ế ẩm nhất trong vòng hơn
hai năm qua. Tất cả 11 phiên đấu thầu trái phiếu tiền đồng trong tháng 4 vừa
qua chỉ huy động được hơn 8.500 tỉ đồng, giảm 50,9% so với tháng trước đó. Thứ ba, nếu Ngân hàng Nhà
nước mua 1 tỉ đô la Mỹ ngoại tệ của Vietcombank, thay vì Bộ Tài chính phát hành
trái phiếu, thì cung tiền sẽ bị ảnh hưởng mạnh vì một khối lượng lớn tiền đồng
sẽ được vào lưu thông. Về phía Vietcombank, khi
thực hiện thương vụ này, họ có thể không đưa khoản cho vay 1 tỉ đô la Mỹ nói
trên vào hạn mức tín dụng hay “room” mua trái phiếu chính phủ theo sự cho
phép của Thông tư 36 về giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng, khoản nợ cũng không gây sức ép lên nợ nước ngoài quốc
gia theo Luật Quản lý Nợ công. Một số ý kiến bình luận với
TBKTSG rằng đây có thể coi là hành động khôn khéo, vừa giúp cho ngân sách
trong tình hình huy động đang khó khăn bởi nguồn thu bị thu hẹp, vừa có lợi
cho ngân hàng. Tất nhiên Vietcombank hẳn phải co kéo khắt khe hơn trong việc
điều tiết nguồn ngoại tệ mà tỷ trọng không nhỏ được huy động ngắn hạn khi họ
phải cân bằng lại nguồn để thực hiện thương vụ này. Hồng Phúc |
Phạm Thế Anh, Đại
học Kinh tế Quốc dân
Theo
Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online
3,429
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN