
Ảnh minh họa
Đây là ý kiến chính thức
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khi công bố tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân
hàng Việt Nam ngày 21/2.
Nợ xấu giảm
Theo số liệu báo cáo của
các tổ chức tín dụng (TCTD), tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng từ 4,08%
(cuối năm 2012) lên 4,73%/tổng dư nợ tín dụng vào tháng 10/2013.
Khi tình hình kinh tế vĩ
mô được cải thiện và dần phục hồi, cộng với nỗ lực của hệ thống TCTD, diễn biến
nợ xấu đã có những tín hiệu khả quan, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đã giảm
mạnh về mức 3,63% tổng dư nợ tín dụng (cuối tháng 12/2013).
Theo NHNN, tuy mức giảm
nợ xấu còn chưa nhiều, song đó là tín hiệu hết sức tích cực phản ánh nỗ
lực của ngành Ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu.
Để có được những kết quả
trên, hệ thống ngân hàng đã tích cực, chủ động thực hiện các giải pháp để kiềm
chế nợ xấu gia tăng và xử lý nợ xấu như: Cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp
cận được vốn vay phục vụ sản xuất; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt
động, tích cực đôn đốc, thu hồi nợ, trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu bằng dự
phòng rủi ro; bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo; thực hiện các giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng và hạn chế nợ xấu phát sinh mới. Đặc biệt là việc thành lập
và đưa vào hoạt động Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
(VAMC).
Trong bối cảnh sản xuất
kinh doanh còn nhiều khó khăn, thị trường bất động sản chậm phục hồi và khả
năng trả nợ của khách hàng vay còn yếu thì áp lực tăng nợ xấu là rất lớn. Biện
pháp cơ cấu lại nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN
thực sự có ý nghĩa hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc tiếp tục được vay vốn
ngân hàng với lãi suất hợp lý hơn, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu tăng trở
lại nếu kinh tế vĩ mô và điều kiện sản xuất kinh doanh, thị trường bất động sản
chậm được cải thiện.
Số liệu nợ xấu của NHNN
được xác định dựa trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và các thông tin
chính thức.
Theo NHNN, do không có
chuẩn mực thống nhất về phân loại nợ nên các cơ quan, tổ chức khác nhau đưa ra
số liệu nợ xấu không giống nhau về cùng một đối tượng là bình thường. Song,
nhìn chung số liệu, thông tin về nợ xấu và hoạt động ngân hàng do cơ quan quản
lý Nhà nước có trách nhiệm đưa ra là đáng tin cậy hơn và có cơ sở pháp lý hơn.
Vì vậy, những thông tin thị trường và những nghiên cứu, đánh giá chất lượng tín
dụng của cơ quan, tổ chức không có chức năng quản lý Nhà nước chỉ có ý nghĩa
tham khảo.
5 giải pháp xử lý
nợ xấu
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn
Bình cũng đề xuất 5 nhóm giải pháp tổng thể xử lý nợ xấu và phòng ngừa, hạn chế
nợ xấu gia tăng trong tương lai cần triển khai từ nay đến năm 2015, gồm: Nhóm
giải pháp đối với TCTD; nhóm giải pháp đối với khách hàng của TCTD; nhóm giải
pháp về cơ chế chính sách; nhóm giải pháp về thanh tra, giám sát và giải pháp
thành lập VAMC; sự tham gia rộng rãi của hệ thống các TCTD, khách hàng vay vốn
và các cấp, các ngành, chính quyền các địa phương.
Về phía ngành Ngân hàng,
NHNN và các TCTD đã, đang cơ cấu lại nợ, tiếp tục hỗ trợ vốn tín dụng cho khách
hàng vay phục hồi sản xuất kinh doanh, xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro, thu
hồi nợ, xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu qua VAMC, tăng cường chất lượng tín
dụng, hạn chế nợ xấu gia tăng, hoàn thiện cơ chế, chính sách…
Tuy mới đi vào hoạt động
từ tháng 7/2013, nhưng đến ngày 31/12/2013, VAMC đã mua được tổng số nợ xấu của
các ngân hàng với số dư nợ gốc 39.307 tỷ đồng và giá mua là 32.739 tỷ đồng,
chiếm khoảng 40-50% nợ xấu của các TCTD.
Với trách nhiệm là cơ
quan quản lý trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo
các TCTD tiết giảm chi phí, hạn chế chi trả cổ tức... để tăng trích lập dự
phòng và tích cực sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, áp dụng các biện pháp
xử lý đối với các khoản nợ xấu đã mất khả năng thanh toán.
Đồng thời củng cố tổ chức
và nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra ngân hàng; tích cực thanh tra, giám
sát đối với các TCTD thông qua các cuộc thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa, phát
hiện và xử lý kịp thời, nghiêm túc các tổ chức và cá nhân có hành vi vi phạm.
Qua công tác thanh tra,
NHNN đã phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật nhiều trường hợp
vi phạm pháp luật dẫn đến nợ xấu.
Những giải pháp xử lý nợ
xấu của ngành Ngân hàng trong thời gian vừa qua đã đem lại kết quả quan trọng
bước đầu là nợ xấu đã được xử lý một bước, tốc độ tăng nợ xấu chậm lại, doanh nghiệp
tiếp tục được vay vốn ngân hàng với lãi suất hợp lý góp phần giảm bớt chi phí
hoạt động cho khách hàng vay do không phải chịu lãi suất phạt quá hạn và được
vay với lãi suất thấp hơn.
Đây là các giải pháp thực
sự có ý nghĩa đối với cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Tuy nhiên, để việc tăng
khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp đạt hiệu quả thì các bộ, ngành cũng cần
phải triển khai đồng bộ các giải pháp về hỗ trợ đầu tư, tăng tổng cầu và hỗ trợ
các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện vay vốn ngân hàng, như: Rà soát các công
trình để tiếp tục ưu tiên bố trí vốn cho các công trình trọng điểm, cấp bách,
hiệu quả; giải quyết tình trạng nợ đọng của ngân sách đối với doanh nghiệp nhằm
khơi thông nguồn vốn đầu tư; hoàn thiện thủ tục pháp lý về đầu tư và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất...
Trong bối cảnh nền kinh
tế còn nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh chậm phục hồi, chỉ bằng các giải
pháp xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng nói trên chưa bảo đảm nợ xấu của các TCTD
được xử lý một cách vững chắc, triệt để, đồng thời ngăn chặn hoàn toàn nguy cơ
nợ xấu gia tăng trở lại.
Nhưng nếu 5 nhóm giải
pháp tổng thể xử lý nợ xấu nêu tại Đề án xử lý nợ xấu và Đề án thành lập VAMC
được triển khai đồng bộ, quyết liệt và với sự tham gia tích cực của tất cả các
bộ, ngành, địa phương, TCTD, khách hàng vay thì Việt Nam có thể xử lý thành công
được nợ xấu theo mục tiêu đã đề ra trong Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
Huy Thắng
Theo Báo điện tử Chính phủ
2,986