Trong báo cáo về triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam, Ngân hàng (NH)
Standard Chartered nhận định Việt Nam sẽ tiếp tục giảm thêm 1% lãi suất
trong quý III/2012, kéo theo lãi suất cơ bản giảm xuống 9% vào cuối năm
2012. NH HSBC và JPMorgan Chase cũng đưa ra dự báo từ nay đến cuối năm,
Việt Nam sẽ giảm lãi suất thêm 2%.
Theo
TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc
gia, Việt Nam vẫn còn dư địa giảm lãi suất. Lạm phát đã thấp xa so với
chỉ tiêu đặt ra (dự báo lạm phát cả năm thấp nhất là 4,6%, cao nhất 6%)
đòi hỏi phải có sự linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ. “Vấn đề
nóng nhất hiện nay là tiếp tục hạ lãi suất hay dừng lại ở mức trần 11%
như hiện nay” - TS Lê Xuân Nghĩa nhận định.
Theo
chuyên gia kinh tế này, Việt Nam đã có thời gian dài duy trì lãi suất
nội tệ cao hơn nhiều so với lãi suất ngoại tệ. Cụ thể là trần lãi suất
huy động nội tệ là 14% (thực tế còn cao hơn) trong khi lãi suất huy động
ngoại tệ chỉ 2%/năm. Sự chênh lệch rất lớn này khiến doanh nghiệp, dân
cư và NH thương mại chuyển trạng thái tài sản, bán ngoại tệ chuyển sang
nội tệ. Trong quý IV/2011, nhiều NH thương mại duy trì trạng thái ngoại
tệ âm. Cùng với xu hướng giảm mạnh nhập khẩu, NH Nhà nước (NHNN) đã có
điều kiện tăng mạnh dự trữ ngoại hối.
Dư
địa giảm lãi suất vẫn còn, giả sử giảm lãi suất huy động xuống 9%/năm,
lãi suất ngoại tệ vẫn là 2% ứng với kịch bản lạm phát cả năm 5% thì dư
địa giảm lãi suất là 3%. Nếu tính theo lạm phát ở mức 6% thì dư địa giảm
lãi suất là 2%. Tuy nhiên, dư địa này khá mong manh vì giảm thêm 1% lãi
suất có thể không có dịch chuyển lớn nhưng vẫn phải thận trọng vì khi
đó, ngân hàng thương mại có thể dễ chuyển từ trạng thái âm ngoại tệ sang
dương ngoại tệ.
Còn lãi suất giảm xuống 8%/năm, rất có thể người dân sẽ
chuyển sang trạng thái ngược lại là chối bỏ nội tệ. Diễn biến mới trên
thị trường hiện nay là không còn rõ xu hướng chuyển dịch ngoại tệ sang
nội tệ nữa, thay vào đó là trạng thái giằng co hoặc hình thành xu hướng
ngược lại. Do đó, NHNN sẽ rất thận trọng trong điều hành giảm lãi suất
những tháng cuối năm.
Nợ xấu ngáng đường tăng trưởng
Để
cứu doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, NHNN đang ép lãi suất
cho vay xuống mặt bằng 15%, duy trì trong vòng một năm. Tuy nhiên, đây
vẫn chỉ là giải pháp hành chính, chưa thể cải thiện được tình trạng suy
kiệt tín dụng đang diễn ra trong 7 tháng đầu năm. Nguyên nhân của tình
trạng này là nợ xấu. Tổng nợ xấu của cả hệ thống NH đã lên đến 202.000
tỉ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ.
Nếu
Chính phủ không vào cuộc mà để NH tự xử lý mỗi năm chỉ giải quyết được
nhiều nhất là 2% và như vậy cần 4-5 năm mới giải quyết xong nợ xấu.
Trong thời gian này, các NH thương mại sẽ không tăng tín dụng hoặc kiểm
soát rất nghiêm ngặt tín dụng mới, duy trì lãi suất cho vay cao để bù
đắp nợ xấu mà họ phải gánh. Như vậy sẽ dẫn đến đình đốn sản xuất, khó
tăng trưởng kinh tế.
Theo
TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế
Trung ương, muốn tăng trưởng cần phải khơi thông tín dụng mà giải pháp
quan trọng để luồng tiền không tắc nghẽn là quyết liệt xử lý nợ xấu và
đẩy mạnh bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nếu nới tín dụng
để đạt mục tiêu tăng trưởng sau khi đã siết quá mạnh thì rất dễ đẩy nền
kinh tế vào nguy cơ lạm phát cao, tạo ra những cú sốc như đã từng xảy
ra.
Các chuyên gia tính toán nếu đẩy tín dụng ra thật mạnh, khoảng
2%/tháng trong 6 tháng cuối năm thì GDP cả năm sẽ đạt khoảng 5,5% -
5,6%, lạm phát (sẽ diễn ra 5 tháng sau đó) sẽ ở mức 1% - 2%/tháng và lạm
phát cao sẽ bùng trở lại như năm 2011.