LS. Trịnh Văn Quyết, Tổng giám đốc
Công ty Luật SMiC cho rằng, việc "chuyển địa chỉ" quy định về bảo hiểm
thất nghiệp nói trên là phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Quy định về bảo hiểm thất nghiệp tại Luật Bảo hiểm xã hội
2006 đã được thay thế bằng các quy định về bảo hiểm thất nghiệp tại Luật Việc
làm, vừa được Quốc hội thông qua ngày 16/11/2013. LS. Trịnh Văn Quyết, Tổng
giám đốc Công ty Luật SMiC cho rằng, việc "chuyển địa chỉ" quy định về
bảo hiểm thất nghiệp nói trên là phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

LS. Trịnh Văn Quyết
Luật Việc làm được Quốc hội thông qua ngày 16/11/2013 đã
thay thế các quy định về bảo hiểm thất nghiệp tại Luật Bảo hiểm xã hội năm
2006. Ông đánh giá sao về sự thay đổi này?
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, phần lớn
các nước quy định chính sách bảo hiểm thất nghiệp hay bảo hiểm việc làm tại một
văn bản luật riêng hoặc quy định trong Luật Việc làm. Ví dụ tại Hàn Quốc, Nhật
Bản, Canada, Đức, Argentina, Mông Cổ.... Chỉ có một số nước quy định trong Luật
Bảo hiểm xã hội như Thái Lan và Mỹ.
Lý do quan trọng nhất, là mục tiêu của bảo hiểm thất nghiệp
có sự khác biệt so với bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp là bảo hiểm ngắn hạn,
nhằm hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm, đào tạo, đào tạo lại tay nghề cho người
lao động thất nghiệp để họ sớm tìm được việc làm; đồng thời, có hỗ trợ, bù
đắp một phần thu nhập của người lao động trong thời gian thất nghiệp.
Mục tiêu ngắn hạn này khác với bảo hiểm xã hội, trong đó trụ
cột chính là bảo hiểm hưu trí, là bảo hiểm dài hạn. Mục tiêu chính của báo hiểm
xã hội là sự bảo đảm, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động
khi nghỉ hưu....
Nghiên cứu kỹ, có thể thấy việc chuyển chính sách bảo hiểm
thất nghiệp từ Luật Bảo hiểm xã hội sang Luật Việc làm không làm thay đổi mô
hình tổ chức, không gây xáo trộn về hoạt động quản lý Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp,
cũng như triển khai thực hiện chính sách này.
So với quy định cũ, đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm
thất nghiệp trong Luật Việc làm đã được mở rộng. Trong bối cảnh hiện nay, điều
này có ý nghĩa gì, thưa ông?
Theo Luật Việc làm thì bảo hiểm thất nghiệp được áp dụng bắt
buộc đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm
việc không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động theo
mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12
tháng.
Trong khi đó, bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội
chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên
và người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 người lao động trở lên.
Tôi nghĩ, việc mở rộng đối tượng người lao động bắt buộc
tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhiều đối tượng người lao động. Quy định này có ý nghĩa to lớn, gián tiếp góp
phần giảm tình trạng lao động thất nghiệp, giảm bớt khó khăn gánh nặng cho các
doanh nghiệp đặc biệt là trong thời kỳ kinh tế còn khủng hoảng như giai đoạn hiện
nay.
Thực tiễn thi hành các quy định trước đây về bảo hiểm thất
nghiệp không mấy hiệu quả, đặc biệt là quy định về việc hỗ trợ tìm việc làm cho
người thất nghiệp. Theo đánh giá của ông, quy định về vấn đề này tại Luật Việc
làm có khắc phục được tình trạng này không?
Theo quy định của Luật Việc làm, bảo hiểm thất nghiệp là chế
độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm và hỗ
trợ người lao động tìm việc làm. Người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp
bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà có nhu cầu tìm kiếm việc
làm được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí.
Tuy nhiên, đây là những quy định không mới và đã được quy định
tại Luật Bảo hiểm xã hội. Do đó, việc Luật Việc làm có khắc phục và cải thiện
tình trạng hiện nay hay không, theo tôi, phụ thuộc phần lớn vào việc thực hiện
và triển khai luật này.
Trên thực tế, cũng đã diễn ra nhiều trường hợp người lao động
lợi dụng quy định về bảo hiểm thất nghiệp để trục lợi từ quỹ này hoặc cán bộ
công nhân viên chịu trách nhiệm kiểm tra, tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp
thất nghiệp gây khó dễ cho người lao động.
Hiện nay, Luật Việc làm đã được thông qua nhưng phải đến năm
2015 mới bắt đầu có hiệu lực. Do đó, theo tôi, để đánh giá hiệu quả thi hành luật
này thì cần thêm một thời gian nữa.
Theo tôi, để đẩy mạnh và phát huy hiệu quả của Luật Việc
làm, trong thời gian tới cần thực hiện nghiêm túc một số vấn đề sau.
Thứ nhất, cần triển khai xây dựng ngay các nghị định và
thông tư hướng dẫn để có thể thực thi ngay luật này khi luật có hiệu lực thi
hành.
Thứ hai, cần thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến Luật
Việc làm đến người lao động và người sử dụng lao động trên cả nước để người lao
động và người sử dụng lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật, tránh trường hợp để đến khi vi phạm mới xử phạt vi phạm thì vừa
không hiệu quả, vừa không đảm bảo sự minh bạch trong triển khai thi hành pháp
luật.
Thứ ba, cần chuẩn bị dần để đảm bảo tổ chức thực hiện tốt việc
giám sát thực thi quy định của luật này, đặc biệt là khâu tiếp nhận, thẩm định
hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp để tránh phát sinh tiêu cực.
Chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm trong Luật Việc
làm được nhiều ý kiến đánh giá là một trong những quy định mang tính nhân văn
cao. Ông có thể đánh giá kỹ hơn về chính sách này?
Từ góc nhìn của tôi, Luật Việc làm đã thể hiện tính nhân văn
ở quy định Nhà nước thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm từ quỹ quốc
gia về việc làm. Đối tượng được vay vốn từ quỹ này chỉ bao gồm: doanh nghiệp nhỏ
và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh; người lao động.
Quy định này đã hướng tới đúng đối tượng cần được sự trợ
giúp, ưu đãi về vốn; khuyến khích các cá nhân có thể tự tạo việc làm cho mình
và các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất tạo thêm nhiều việc làm.
Đồng thời, có thể thấy các quy định về điều kiện vay vốn là
khá đơn giản, tạo thuận lợi cho người có nhu cầu vay vốn.
Tuy nhiên, để chính sách tín dụng ưu đãi thực sự phát huy được
tác động tích cực nói trên, theo tôi cần có quy định cụ thể, hướng dẫn thêm của
Chính phủ về mức vay, thời hạn vay, lãi suất cho vay, trình tự, thủ tục vay vốn
và điều kiện bảo đảm tiền vay.
"Dịch vụ việc làm" là một thuật ngữ mới xuất hiện
tại Luật Việc làm. Theo đánh giá của ông, quy định này có ý nghĩa thế nào đối với
thị trường lao động?
Thực chất, đây không phải là một thuật ngữ mới. Quy định về
tổ chức dịch vụ việc làm đã được quy định tại điều 14 Bộ luật Lao động 2012.
Tuy nhiên, trong Luật Việc làm, quy định về "dịch vụ việc
làm" được làm rõ hơn, bao gồm: tư vấn, giới thiệu việc làm; cung ứng và
tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, cung cấp
thông tin về thị trường lao động.
Theo tôi, các quy định này sẽ đóng vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển của thị trường lao động Việt Nam hiện nay.
Đó chính là cầu nối giữa người sử dụng lao động và người lao
động, tạo điều kiện giúp người lao động được làm những công việc phù hợp với
nguyện vọng và trình độ của mình, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, giúp người
lao động có việc làm và thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống bản thân và gia
đình, góp phần giúp xã hội phát triển lành mạnh.
Luật Việc Làm quy định hai hình thức tổ chức dịch vụ việc
làm, bao gồm: rrung tâm dịch vụ việc làm và doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc
làm.
Trung tâm dịch vụ việc làm là tổ chức dịch vụ công về việc
làm, là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, thực hiện hoạt động tư vấn, giới thiệu
việc làm miễn phí cho người lao động.
Trong khi đó, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm được
thu phí đối với các hoạt động dịch vụ việc làm và là một ngành kinh doanh có điều
kiện, phải được cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm.
Theo Đầu tư Chứng khoán
6,045