Rạng sáng 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ
đưa hơn nửa triệu quân cùng hàng nghìn xe tăng, xe cơ giới tràn qua biên giới
Việt Nam, đồng loạt tấn công 6 tỉnh phía Bắc từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò
Hèn (Quảng Ninh) trên chiều dài 1.200 km biên giới.

Xem chi tiết đồ họa chiến sự năm 1979.
Mối quan hệ Việt - Trung rạn nứt năm
1968 khi Việt Nam giao hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc, trong khi quan hệ Xô -
Trung đang căng thẳng. Chiến thắng mùa xuân 1975 theo đánh giá của nhiều nhà sử
học thế giới là kết quả Trung Quốc không mong muốn, khi Bắc Kinh và Washington
đạt được một số thỏa thuận sau chuyến thăm của Tổng thống Nixon.
Tháng 5/1975, quân Khmer Đỏ đánh chiếm
các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam tàn sát dân thường và
đứng đằng sau là Trung Quốc tài trợ khí tài, cố vấn quân sự. Tháng 11/1978, Hiệp
ước hữu nghị Việt - Xô được ký chính thức xác nhận Việt Nam đứng về phía Liên
Xô.
Gần 2 tháng sau, quân đội Việt Nam tổng
phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer
Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ cho Việt Nam.
"Phải dạy cho Việt Nam một bài học",
Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình khi ấy tuyên bố.
Cuộc chiến biên giới phía Bắc nổ ra giữa
lúc các quân đoàn chủ lực của Việt Nam đang chiến đấu với quân Khmer Đỏ ở
Campuchia. Dọc tuyến biên giới chỉ có lực lượng chủ lực của các quân khu, bộ đội
địa phương và dân quân du kích. Tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh
biên giới phía Bắc khoảng 50.000 quân. Trong khi Trung Quốc ước tính 600.000 với
9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư
đoàn, trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng
nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Có nơi, quân Trung Quốc thọc sâu vào đất liền đến
hơn 40 km.
Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định điều động
các sư đoàn bộ binh của các quân khu từ tuyến sau lên. Quân dân 6 tỉnh biên giới
chủ động tổ chức lực lượng chiến đấu tại chỗ, cầm chân và đẩy lùi từng đợt tiến
côngcủa quân Trung Quốc trong khi chờ quân chủ lực lên ứng chiến. Cùng thời điểm,
một cuộc chuyển quân thần tốc lên biên giới phía Bắc của 3 quân đoàn chủ lực Việt
Nam diễn ra bằng đường biển, đường bộ, đường hàng không. Liên Xô tương trợ cho
Việt Nam bằng cách lập cầu hàng không lớn cơ động các đơn vị tại mặt trận
Campuchia ra thẳng miền Bắc.
"Toàn
thể già, trẻ, gái, trai đứng lên nhất tề bảo vệ tổ quốc'
Trước tình thế cấp bách, ngày 4/3/1979,
Ban chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhất
tề đứng lên bảo vệ tổ quốc.
Sáng 5/3, chương trình phát thanh 90
phút thường ngày của Đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin đặc biệt kêu gọi:
"Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước
ta. Độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình
và ổn định ở Đông Nam châu Á đang bị đe dọa. Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức
chiến đấu để tự vệ... Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các
tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng,
triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc".

Lệnh tổng động viên được đăng trên báo
Nhân dân ngày 6/3/1979. Ảnh: Hoàng Phương.
Ngay sau lời kêu gọi, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội họp phiên bất thường dưới sự chủ trì của Chủ tịch Trường Chinh. Theo đề
nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định tổng động
viên trong cả nước. Mọi công dân trong lứa tuổi do luật định đều phải gia nhập
lực lượng vũ trang theo kế hoạch của Hội đồng Chính phủ; huy động mọi nhân lực,
vật lực, tài lực cần thiết để đảm bảo nhu cầu của cuộc kháng chiến cứu nước.
Cùng ngày, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng
ký sắc lệnh 29 - LCT ra lệnh tổng động viên trong cả nước. Hội đồng Chính phủ
ban hành nghị định về việc thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân.
Trong đó, yêu cầu nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi có đủ điều kiện,
đều gia nhập hàng ngũ du kích và tự vệ. Ngoài ra, ai tự nguyện đều được đưa vào
tổ chức vũ trang quần chúng. Khi xảy ra chiến sự ở địa phương, trừ những người
được phép sơ tán đi nơi khác, còn tất cả mọi người phải ở lại làm nhiệm vụ chiến
đấu và phục vụ chiến đấu.
Bài xã luận trên báo Nhân dân ra ngày
5/3/1979 nêu rõ "Lời kêu gọi của trung ương là lời hịch quyết chiến quyết
thắng của tổ quốc. Tất cả con em đất nước Việt Nam đang đi vào cuộc chiến đấu mới:
cả nước đánh giặc, toàn dân là lính"… 50 triệu người Việt Nam khi ấy đã
chuẩn bị sẵn sàng cho tình thế chuyển từ thời bình sang thời chiến.
Lệnh tổng động viên được ban bố, cũng
trong ngày 5/3/1979 Trung Quốc bất ngờ
tuyên bố rút quân, và rêu rao hoàn thành mục tiêu "dạy cho Việt Nam một
bài học". Ngày 7/3/1979, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố
cho phép Trung Quốc rút quân.
Ngày 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc
rút quân. Trước khi rút, chúng còn tàn phá một số làng mạc, phá hoại công trình
di tích, bệnh viện, trường học, giết hại nhiều người dân vô tội.

Chiến sĩ Hà Ngọc Thơ (đoàn H45 Hoàng
Liên Sơn) bị thương khi cùng đồng đội tiêu diệt quân Trung Quốc xâm lược. Ảnh
tư liệu: Hoàng Như Thính.
Lệnh
tổng động viên duy nhất từ 1975 cho đến nay
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, Viện trưởng Lịch
sử Đảng, nguyên đại tá, Chính ủy Sư đoàn 308 nhớ lại, thời điểm ra lệnh tổng động
viên, ông đang công tác ở Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng). Nghe lệnh, cả
Hà Nội sục sôi bởi "không người dân nào có thể khoanh tay khi đất nước lâm
nguy". "Trước khi quân Trung Quốc đánh sang, chúng tôi đã được huy động
đi đào chiến hào trên các ngọn đồi, khu vực Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội. Phòng
tuyến ấy được kéo dài đến tận các tỉnh biên giới phía Bắc. Tức là, chúng ta đã
có sự chủ động phòng thủ", ông kể.
Từ khắp các công, nông trường, xí nghiệp,
thôn xóm có hàng nghìn lá đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. Trong phòng truyền
thống của Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn ngày nay vẫn còn lá đơn viết bằng
máu của thầy giáo Nguyễn Chiều, khi đó là giáo viên khoa Sử, Đại học Tổng hợp với
quyết tâm: "Cho tôi trở lại quân đội bảo vệ tổ quốc".
Ông Hà phân tích, thời điểm tổng động
viên, Hà Nội và cả nước đã sẵn sàng để bước vào một cuộc kháng chiến. Tính từ
năm 1975 đến nay, đó là lệnh tổng động viên duy nhất được ban hành. Trước đó
năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ký Sắc lệnh Tổng động viên nhân lực, vật lực,
tài lực của toàn thể nhân dân để phục vụ cho nhu cầu kháng chiến chống Pháp
đang đến giai đoạn tổng phản công. Trong kháng chiến chống Mỹ, lời kêu gọi đồng
bào và chiến sĩ cả nước năm 1966 của Hồ Chủ tịch và những đợt huy động lực lượng
dồn sức cho chiến trường miền Nam vào các năm 1972, 1974 chưa được gọi là tổng
động viên.
"Từ khi lệnh tổng động viên được
ban bố đến khi quán triệt đến toàn quân, toàn dân thì phải cần một quãng thời
gian nhất định. Lệnh mới được ban ra, Trung Quốc rút quân nên lệnh tổng động
viên chưa kịp thực hiện. Dù chúng ta không mong muốn, nhưng nếu quân Trung Quốc
còn ở lại thì chắc chắn lệnh tổng động viên sẽ được thực hiện rất nhanh",
ông đánh giá.
Cuộc chiến biên giới phía Bắc chính thức
diễn ra từ ngày 17/2 đến ngày 5/3/1979 nhưng xung đột biên giới kéo dài dai dẳng
đến tận năm 1988. Sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc vẫn duy trì thường
xuyên nhiều sư đoàn, trung đoàn độc lập áp sát biên giới Việt Nam gây căng thẳng
nhằm lấn chiếm lãnh thổ. Có thời điểm 1984-1986, chiến sự diễn ra ác liệt ở mặt
trận Vị Xuyên (Hà Giang) khi quân đội Việt Nam tổ chức phản công giành lại các
điểm cao biên giới bị quân Trung Quốc lấn chiếm trái phép.
Nhiều đợt nhập ngũ vẫn diễn ra, các đơn
vị chủ lực của quân đội Việt Nam thay phiên nhau đưa quân lên bổ sung cho chiến
trường phía Bắc. Hàng chục nghìn thanh niên Việt Nam lứa tuổi 18-20 đã mãi mãi
nằm lại nơi biên giới phía Bắc trong cuộc chiến chống lại quân Trung Quốc xâm
lược.
Tháng 11/1991 Việt Nam - Trung Quốc tuyên
bố bình thường hoá quan hệ.
Hoàng Phương
Theo Vnexpress
9,084