Quan hệ Việt - Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968 khi Việt Nam đồng
thời giao hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc trong bối cảnh mối quan hệ 2 nước
này xuất hiện nhiều xung đột căng thẳng. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới thăm
Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. Ba năm sau đó, Việt Nam từ chối
tham gia liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc.
Bắc Kinh xem đó như mối đe dọa. Tháng 5/1975, Khmer Đỏ
cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt
Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Đứng sau viện trợ cho Khmer Đỏ về vũ khí,
khí tài cũng như cố vấn quân sự là Trung Quốc. Tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa cũng
nổi lên rõ hơn khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo.

|
Những người lính đầu tiên bảo vệ đất nước là bộ
đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân
dân 6 tỉnh biên giới. Ảnh tư liệu. |
Ngày 3/11/1978, Việt - Xô ký hiệp ước hữu nghị 25 năm -
chính thức xác nhận Việt Nam đứng về phía Liên Xô. Gần 2 tháng sau, quân đội Việt
Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền
Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ cho Việt Nam.
Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình khi ấy đã tuyên
bố "phải dạy cho Việt Nam một bài học".
Cuộc chiến 30 ngày
Rạng sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua
biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm
Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.
Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn
công của Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới.
Theo Niên giám châu Á năm 1980, thời điểm Trung Quốc tấn
công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc
có khoảng 50.000 quân
Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32
sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn
pháo binh, phòng không cùng hàng trăm khẩu pháo, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa
tiễn. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người, gấp hơn 10 lần lực lượng tham
chiến thực tế của Việt Nam.
Trên mặt trận Lạng Sơn, các cánh quân lớn của
Trung Quốc chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc
Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn).
Dù bị bất ngờ song với lực lượng dân quân địa phương, Việt Nam đã chặn đánh,
ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày.
Ngày 20/2, Trung Quốc tăng cường lực lượng chi viện, mở các
đường tấn công mới vào điểm cao nhằm tiến xuống phía nam Đồng Đăng. Quân và dân
Lạng Sơn bám trụ trận địa, đánh trả mạnh mẽ các mũi tấn công phía trước, phía
sau của địch, buộc quân Trung Quốc phải co về đối phó và bị đẩy lùi ở nhiều
nơi.
Sau 10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2,
Trung Quốc tung thêm một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn. Cuộc chiến diễn ra
quyết liệt giữa 2 quân đoàn tăng cường của Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa
phương Việt Nam. Ở điểm cao 417, đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt tấn công,
loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung Quốc. Đặc biệt, ở khu vực cầu
Khánh Khê trên đường 18, chiến sĩ đoàn Tây Sơn đã chặn đứng một sư
đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.

|
Hàng vạn thanh niên Việt Nam mới 18,
đôi mươi đã nằm lại nơi biên giới phía Bắc, giữ vững chủ quyền dân
tộc. Ảnh tư liệu. |
Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của
Trung Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông
đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở
thị xã Cao Bằng.
Cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng
đánh chặn. Cánh quân tây bắc dựa vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại
Hòa An. Cánh quân đông bắc cũng bị đánh quyết liệt ở Thạch An và Quy Thuận, bị
chặn đứng trên đường số 4. Mũi đánh vào Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm 2 sư đoàn nhằm
chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng bị lực lượng vũ trang địa phương phản kích
làm tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên giới.
3 ngày đầu, quân Trung Quốc tại Cao Bằng đã bị thiệt hại 4
tiểu đoàn, bị phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và buộc phải đưa lực lượng
dự bị vào vòng chiến. Trên trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng
của Việt Nam đã chặn đứng một sư đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000
lính. Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo chạy.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, từ mờ sáng 17/2, các
sư đoàn tuyến 1 của hai quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng
Liên Sơn từ phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều
mũi vào các huyện Bát Xát, Mường Khương, bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung
Quốc đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã
Lao Cai và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã cùng các lực lượng vũ
trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung Quốc không qua
nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.
Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, cùng một lúc
quân Trung Quốc chia các hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến
công theo đường 10 vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng
vũ trang địa phương. Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ.
Ở Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào
các đồn chốt biên phòng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ
trang, dân quân, bộ đội các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các
dân tộc. Hơn 1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.
Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ
binh tiến công vào Pò Hèn, Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai
ngày 19 và 20/2, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về
biên giới.
Trung Quốc rút quân
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Việt Nam Tôn Đức Thắng ra lệnh
tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục
tiêu chiến tranh" và bắt đầu rút quân. Các nhà quan sát lúc đó cho rằng
rút lui là hành động rất khó, có thể gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất nếu bị
quân tinh nhuệ Việt Nam phản công.
Ngày 7/3, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân, thể
hiện thiện chí hòa bình. 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân.
Trải qua 30 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang tại chỗ
và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh
nhân dân, đánh trả quyết liệt.
Việt Nam công bố, tiêu diệt 62.500 lính Trung Quốc (hơn
1/10 tổng số được huy động), đánh tan hoặc gây thiệt hại nặng 3 trung
đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng,
xe bọc thép (hơn một nửa số tham chiến), phá hủy 115 đại bác và súng
cối hạng nặng…
Tuy nhiên, cuộc xâm chiếm của Trung Quốc đã gây ra những thiệt
hại nặng cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy
diệt hoàn toàn, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp, hàng chục nghìn ha hoa màu
bị tàn phá. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị
mất nhà cửa, tài sản.
Kết thúc một tháng giao tranh, giới phân tích nhận định,
thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã học được bài học của chính
mình.
Sau ngày 18/3/1979 đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không
rút hết quân như tuyên bố. Suốt gần 10 năm đó, chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm
nhất là năm 1984-1985. Nhiều đơn vị quân đội của Trung Quốc đã được luân chuyển
tới biên giới, biến Việt Nam thành thao trường.
Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng
quân sự lớn dọc biên giới. Tình trạng chiến tranh khiến kinh tế Việt Nam thiệt
hại nặng nề.
Năm 1992, Việt Nam, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ.
Hoàng Thùy - Nguyễn
Hưng
Theo VnExpress
6,176