Trên số báo hôm qua
(28-8), chúng tôi đã giới thiệu vụ tranh chấp hai quần đảo Ligitan và
Pulau Sipadan giữa Indonesia và Malaysia. Trong Luật số 4 ngày 8-2-1960
của Indonesia, đường cơ sở bao quanh đảo quốc này đã không đề cập đến
đảo Ligitan và Pulau Sipadan, tức các quần đảo này nằm ngoài đường cơ sở
của Indonesia. Từ đó, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cho rằng yếu tố này
đã làm cho Indonesia yếu đi về mặt hành xử chủ quyền (effectivité) - một trong những phương pháp thụ đắc chủ quyền lãnh thổ. Cuối cùng, ICJ đã tuyên Malaysia thắng kiện.
Hành xử chủ quyền của Việt Nam
Đối với Hoàng Sa và Trường Sa (HS-TS) của Việt Nam, các bản đồ cổ do triều đình phong kiến Việt Nam vẽ như An Nam Quốc (thời Hồng Đức, 1490) hay Đại Nam nhất thống toàn đồ (1840, thời Minh Mạng) thể hiện rõ hai quần đảo này thuộc lãnh thổ của Việt Nam. Các bản đồ này cấu thành effectivité
của Việt Nam cùng với các văn kiện và hành động khác của triều Nguyễn
(như thường xuyên cử các đội thuyền Hoàng Sa và Bắc Hải đến HS-TS để
khảo sát, đo đạc, khai thác tài nguyên; thu lượm các tài sản chìm đắm,
xây miếu dựng đền và trồng cây như các biểu tượng khẳng định chủ quyền,
tổ chức thu thuế, cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn…).
Nói cách khác, các bản đồ này, cùng với các hành động
khác của nhà nước phong kiến Việt Nam là cơ sở khẳng định rằng Việt Nam
đã hành xử, thủ đắc chủ quyền từ rất lâu đối với HS-TS.
Ngược lại, nhiều bản đồ do nhà nước phong kiến Trung
Quốc (TQ) vẽ không ghi HS-TS là lãnh thổ của họ. Theo tác giả Phạm Hoàng
Quân, các địa đồ trải qua các đời Nguyên, Minh thể hiện điểm cực nam
của TQ không quá đảo Quỳnh Châu (Hải Nam). Ví dụ: Quảng dư đồ của La Hồng Tiên, hoàn thành năm 1541, khắc in năm 1555; Hoàng triều chức phương địa đồ khắc in năm 1636; Dư địa đồ
của Dương Tử Khí khắc in năm 1526... Đây là những địa đồ hành chính
toàn quốc, được thực hiện theo chủ trương của chính quyền trung ương TQ
các đời. Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cũng dẫn ra nhiều bản đồ khác
sau đó không thể hiện HS-TS thuộc TQ. Bản Hoàng triều trực đỉnh địa dư toàn đồ xuất bản năm 1904 mà các báo gần đây có thông tin cũng không vẽ HS-TS thuộc TQ.

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn giới thiệu về Địa dư đồ khảo. Ảnh: LĐ
Rõ ràng trong một thời gian dài, TQ đã không có một
hành động nào thể hiện việc hành xử chủ quyền đối với HS-TS; trong khi
Việt Nam đã có hàng loạt hành động nhằm để thụ đắc chủ quyền đối với hai
quần đảo này.
Nói cách khác, việc TQ không vẽ HS-TS trong bản đồ
lãnh thổ của mình có thể được các tòa án quốc tế đánh giá theo án lệ
dành cho Indonesia như đã nêu trên.
Sự im lặng của TQ và thuyết acquiescence
Cũng trên số báo hôm qua, chúng tôi đã đề cập đến thuật ngữ pháp lý quốc tế acquiescence
mà Tòa án Trọng tài Thường Trực (PCA) đã áp dụng khi giải quyết tranh
chấp vùng Rann of Kutch giữa Ấn Độ và Pakistan. Theo đó, PCA đã cho rằng
các bản đồ có thể được làm chứng cứ cho acquiescence.
Acquiescence là một sự thừa nhận ngầm bằng một
ứng xử đơn phương, có thể được diễn giải như là sự đồng ý. Hiểu nôm na,
nếu bên này có những ứng xử đơn phương mà bên kia im lặng, không có bất
kỳ động thái phản đối nào thì xem như bên kia đã ngầm đồng ý, thừa nhận
yêu cầu của bên này (kiểu ta hay nói “im lặng là đồng ý” vậy). Tất
nhiên, nội hàm của thuật ngữ acquiescence rộng hơn nhiều.
Áp dụng luận điểm trên vào trường hợp HS-TS, chúng ta
có thể thấy rằng nhà nước phong kiến Việt Nam đã thể hiện trong bản đồ
hai quần đảo HS-TS như là lãnh thổ của mình. Trong khi đó, các nhà nước
TQ thời đó đã không hề phản đối các bản đồ này, cũng như không phản đối
các hành động khác thể hiện việc hành xử chủ quyền (effectivité) của nhà nước Việt Nam. Từ đó có thể lập luận rằng TQ thời đó đã công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với HS-TS thông qua acquiescence như án lệ trên của PCA.
Sức nặng của bản đồ do bên thứ ba làm ra
Trong phán quyết xét xử tranh chấp giữa Eritrea và
Yemen, PCA đã nhìn nhận giá trị của các bản đồ được làm ra bởi bên thứ
ba trung lập. PCA phán quyết rằng mặc dù không thể xác định rằng các bản
đồ này như là sự thể hiện chủ quyền pháp lý (titre) nhưng các bản đồ này là những chứng cứ quan trọng về quan điểm công chúng về tiếng tăm.
Tương tự, trong phán quyết xét xử tranh chấp biên giới giữa Burkia Faso và Mali, ICJ cũng cho rằng bản đồ được vẽ bởi một cơ quan trung lập (với các quốc gia trong tranh chấp) có ý nghĩa pháp lý nhất định.
Theo các án lệ trên, nếu tranh chấp chủ quyền liên
quan đến HS-TS được đưa ra tòa án quốc tế thì Việt Nam sẽ có nhiều lợi
thế nhờ vào hàng loạt những bản đồ của bên thứ ba và trung lập vẽ trong
lịch sử.
Đó là bản đồ do các nhà hàng hải phương Tây vẽ từ thế
kỷ XVI ghi rõ quần đảo Hoàng Sa (tên là Paracel hoặc Pracel) nằm ở
bờ biển của Việt Nam. Loại này có đến hàng trăm cái, có nhiều cái còn
ghi tác giả, có cái ghi là Vô Danh. Tấm bản đồ có thể nói là quan trọng
nhất là An Nam Đại Quốc họa đồ do Taberd vẽ, được xuất bản năm
1838. Đây là tấm bản đồ ghi rõ Hoàng Sa “Pracel sue Cat Vang” là của
Việt Nam. Vị trí tọa độ của nó cũng tương thích với tọa độ mà các nhà
hàng hải phương Tây đã vẽ trước đó, đồng thời giống với tọa độ của Hoàng
Sa ngày nay.
Địa dư đồ khảokhẳng định Hải Nam là biên giới cuối của TQ (PL)- Sáng 28-8, tại tòa soạn báo Giác Ngộ(TP.HCM), Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ công bố tập sách Địa dư đồ khảo.
Đây là bộ sách do nhà Thanh xuất bản dưới triều Quang Tự (1875-1908)
tại TQ. Tập sách này có kèm theo bản đồ chi tiết rõ ràng, nội dung chính
thức xác nhận Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) là biên giới cuối cùng của
lục địa TQ (hoàn toàn không có HS-TS). Ở Việt Nam, cụ Trần Đình Bá
(1867-1933) lúc làm thượng thư Bộ Hình triều Khải Định (1916-1925) đã
cho sao chép lại cất vào tủ sách Phước Trang ở tư thất tại Huế. Tập sách
truyền đến đời thứ tư là nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn (chuyển vào Sài
Gòn từ năm 1968). Theo ông Trần Đình Sơn, việc công bố Địa dư đồ khảonhằm góp phần củng cố tư liệu về chủ quyền biển đảo Việt Nam. Đồng
thời, ông mong qua việc này sẽ có thêm nhiều tư liệu quý giá, nhất là
được viết bởi chính TQ, được tìm tòi để công bố, làm cơ sở đấu tranh
ngoại giao về vấn đề chủ quyền của Việt Nam. QUỲNH TRANG Luật sư-Tiến sĩ Lê Minh Phiếu (ảnh)sinh năm 1980, bảo vệ luận án tiến sĩ luật thương mại quốc tế tại
Trường ĐH Montesquieu, Bordeaux IV, Pháp. Anh tham gia vào hoạt động
nghiên cứu về các vấn đề pháp lý ở biển Đông, đấu tranh cho chủ quyền
biển đảo của Việt Nam từ rất sớm.
Khi còn đang là
nghiên cứu sinh luật ở Pháp, anh được chọn là người rước đuốc cho
Olympic 2008 và anh đã viết thư gửi Ủy ban Olympics Quốc tế phản đối
việc Trung Quốc chính trị hóa Olympic Bắc Kinh 2008, vẽ những dấu hiệu
thể hiện sai chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trên bản đồ rước
đuốc Olympics. Từ lá thư này, TQ đã phải xóa bỏ các dấu hiệu này trên
các bản đồ trên trang web chính thức của Olympic 2008. TS Lê Minh Phiếu tham gia và viết nhiều bài viết giá trị về vấn đề pháp lý ở biển Đông như: Việt
Nam trước chủ trương của Trung Quốc đối với biển Đông, Từ vịnh Bắc Bộ
đến Hoàng Sa, Giải pháp đòi lại Hoàng Sa, Chiến lược giải quyết tranh
chấp Hoàng Sa, Nên xem xét khởi kiện vụ ngư dân bị bắt, Giải pháp COC
cho biển Đông, Dựa vào COC để kiện Trung Quốc… M.CƯỜNG |
LS-TS LÊ MINH PHIẾU (Quỹ Nghiên cứu biển Đông)
7,144
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN