 |
Hội nghị biểu dương cá nhân có thành tích phòng, chống tham nhũng
|
Theo Ngân hàng Thế giới, “tham
nhũng là lạm dụng các quỹ hay/hoặc chức vụ công để thu lợi ích chính trị
hay lợi ích vật chất riêng”. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), “tham
nhũng là lạm dụng quyền lực được giao để thu lợi riêng”.
Còn theo Rose Ackerman – một chuyên gia
quốc tế nổi tiếng về phòng, chống tham nhũng – “tham nhũng là việc sử
dụng sai quyền lực được giao để thu lợi ích riêng”... Như vậy, một cách
chung nhất, có thể hiểu tham nhũng là việc lạm dụng chức vụ hay quyền
lực công hoặc tư để thu lợi ích riêng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tham nhũng có mối liên hệ không thể tách rời với quyền lực và việc sử
dụng quyền lực.
Trong thực tế, hành vi tham nhũng chủ
yếu là sự lạm dụng quyền lực nhà nước, bởi các cơ quan, công chức nhà
nước. Do đó, khái niệm quyền lực trong tham nhũng cơ bản đề cập đến
quyền lực nhà nước. Ở đây, tham nhũng có tính chất là một “căn bệnh’
chung, cố hữu của mọi nhà nước, bất kể thuộc thể chế chính trị nào.
Năm 1887, Lord John Acton (1834-1902) –
một nhà sử học người Anh – đã đưa ra một nhận định mà sau đó được trích
dẫn bởi các nhà luật học và chính trị học như là một luận điểm “kinh
điển”: “Quyền lực dẫn tới sự tha hóa. Quyền lực tuyệt đối dẫn tới sự tha
hóa một cách tuyệt đối”.
Tuyên bố nổi tiếng kể trên đã chỉ rõ
một đặc điểm mang tính quy luật của quyền lực, đó là xu hướng tất yếu
dẫn đến sự tha hóa, lạm quyền của những chủ thể (cá nhân, tổ chức) nắm
giữ quyền lực. Rõ ràng là bất cứ ai, bất cứ thiết chế hay tổ chức nào,
kể từ khi được trao cho hay giành được quyền lực, dù ở bất cứ dạng thức
nào, đều có xu hướng và tìm cách áp đặt ý tưởng, mong muốn, tham vọng,
kế hoạch, dự định… của mình lên các chủ thể khác.
Quyền lực có ma lực khiến cho các chủ
thể nắm giữ nó nhanh chóng trở lên kiêu ngạo, bảo thủ, ngông cuồng,
hoang tưởng, viển vông và ích kỷ, xa rời những mục tiêu cao cả ban đầu
mà họ đã đặt ra – những mục tiêu mà khiến cho những chủ thể nắm giữ và
không nắm giữ quyền lực hòa thành một khối.
Trong tiến trình phát triển, vấn đề đặt
ra cho nhân loại là phải tìm cách giải quyết sự tha hóa của quyền lực,
hay nói cách khác là sự lạm quyền, lộng quyền của những chủ thể nắm giữ
quyền lực. Nếu không giải quyết được vấn đề cốt lõi này, nhân loại sẽ
không thể giải quyết được vấn nạn tham nhũng. Mở rộng hơn, nếu không tìm
được cách kiểm soát những chủ thể nắm giữ quyền lực, nền văn minh nhân
loại bao hàm rất ít ý nghĩa nhân văn, thậm chí có khía cạnh còn tệ hơn
trật tự dã man trong thế giới động vật, bởi lẽ trong xã hội loài người,
kẻ mạnh (nắm giữ quyền lực) thường có những thủ đoạn rất tinh vi để áp
bức kẻ yếu (những chủ thể không nắm giữ quyền lực). Năng lực “sáng tạo”
ra những thủ đoạn tinh vi như vậy của con người vượt xa bất kỳ loài động
vật nào khác.
Kiểm soát và chế ước những chủ thể nắm
giữ quyền lực công là chức năng quan trọng của pháp luật với ý nghĩa là
một hệ thống nói chung, song nó đặc biệt gắn với Hiến pháp – đạo luật
gốc của một quốc gia. Đó là bởi, nói như Thomas Paine: “Hiến pháp không
phải là đạo luật của một chính phủ, mà là đạo luật của một dân tộc nhằm
cấu thành nên chính phủ..”. Rõ ràng hơn, Patrick Henry tuyên bố: “Hiến
pháp không phải là một công cụ của chính phủ để đàn áp nhân dân, mà là
một công cụ để nhân dân kiềm chế chính phủ ..”.
Đây cũng là tư tưởng của lý thuyết về
chủ nghĩa Hiến pháp (hay chủ nghĩa hợp hiến – constitutionalism) – vốn
xuất phát từ các học thuyết chính trị của John Locke, theo đó quyền lực
của nhà nước cần phải được giới hạn bởi pháp luật, mà cụ thể là bởi Hiến
pháp và nhà nước phải tuân thủ những giới hạn luật định đó trong hoạt
động. Nói cách khác, không giống với các văn bản khác trong hệ thống
pháp luật của quốc gia, Hiến pháp – dù dưới bất kỳ chính thể nào – xét
bản chất cũng đều là văn bản quy định về tổ chức và kiểm soát quyền lực
nhà nước. So với các văn bản pháp luật khác của một quốc gia, Hiến pháp
thể hiện tập trung và nổi bật nhất nguyên tắc quyền lực cao nhất và
tuyệt đối thuộc về nhân dân, quyền lực của nhà nước chỉ là phái sinh, do
nhân dân trao cho, có giới hạn và phải bị kiểm soát.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy
rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp và cuộc chiến chống tham nhũng. Trong mối
quan hệ này, Hiến pháp đóng vai trò là công cụ pháp lý nền tảng cho việc
thiết lập các thiết chế, cơ chế phòng ngừa tham nhũng ở một quốc gia,
thông qua chức năng tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của nó. Một
bản hiến pháp được coi là tốt khi kiến tạo được một thiết chế tổ chức
quyền lực hợp lý, tạo cơ sở cho việc ngăn chặn và xử lý những hành vi
tùy tiện, lạm dụng quyền lực của các cơ quan, quan chức nhà nước. Theo
nghĩa đó, một bản Hiến pháp tốt đồng nghĩa với việc nó có tác động tốt
đến phòng, chống tham nhũng và xây dựng một cơ chế liêm chính quốc gia.
GS.TS Nguyễn Đăng Dung - TS Vũ Công Giao (còn tiếp)