Quá muộn
Sau bao nhiêu lần bàn thảo ở các cấp độ,
sự nỗ lực của Chính phủ và những lời kêu cứu thảm thiết từ các hiệp
hội, các doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã quy định
lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn
phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế.
Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn bằng
VND của TCTD đối với khách hàng vay tối đa bằng lãi suất tối đa đối với
tiền gửi bằng VND có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên do NHNN quy định cộng
3%/năm. Các lĩnh vực áp dụng là: Nông nghiệp, nông thôn quy; Thực hiện
phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất; Phục vụ sản xuất -
kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; Phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ
Trần lãi suất cho vay được đưa ra trong
bối cảnh các doanh nghiệp trong nước đang ở trong tình cảnh vô cùng khó
khăn và hệ thống ngân hàng đang ổn định trở lại.
Các số liệu gần đây cho thấy, hệ thống
NHTM Việt Nam đang trong tình trạng thừa tiền do huy động được nhiều
nhưng không cho vay được do lãi suất cao và các doanh nghiệp không thẩm
thấu được khi mà cả nền kinh tế đang đình trệ. Tăng trưởng tín dụng quý
I/2012 đạt âm 1,96%.
Thừa tiền đã khiến các ngân hàng buộc
phải đem mua trái phiếu với lãi suất rất thấp. Số liệu vào cuối tháng
4/2012 cho thấy, lãi suất tín phiếu kỳ hạn 28 ngày, 91 ngày và 182 ngày
giảm mạnh xuống tương ứng là 6,2%, 9,4% và 10,34%/năm.
Không chỉ thế, lãi suất cho vay liên
ngân hàng cũng xuống thấp nhất trong nhiều tháng qua. Lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng đã xuống 3%/năm với lãi suất qua đêm, 4-5% lãi
suất kỳ hạn dài hơn.
Một nghịch lý là mặc dù thừa tiền như
vậy, nhưng lãi cho các doanh nghiệp trong nước vay vẫn đang ở mức 18-20%
khiến một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp đã lỗ hoặc mất hết lãi
ngay trong quý I/2012 vừa qua.
Không những thế, tình trạng phá sản,
đóng cửa vẫn đang tiếp diễn theo chiều hướng rất xấu. Theo số liệu công
bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau 4 tháng đầu năm, cả nước đã có khoảng
14.000 doanh nghiệp phá sản hoặc dừng hoạt động. Con số này thực sự là
một tín hiệu báo động đối với nền kinh tế.
Đánh giá về thực trạng kinh tế hiện nay,
các lãnh đạo cấp cao Nhà nước và các chuyên gia đều cho rằng tình hình
kinh tế hiện rất khó khăn, tăng trưởng đang chậm lại và cần được khơi
thông nhanh chóng.
Phát biểu tại phiên thảo luận về phương
án phân bổ sử dụng nguồn dư dự toán chi và vượt thu ngân sách Trung ương
năm 2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chiều 4/5, Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Sinh Hùng cũng nhấn mạnh cho rằng tình hình kinh tế đang rất xấu,
suy giảm và giảm phát đã rất rõ ràng.
Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, thành viên hội
đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia cũng cho rằng, đã đến lúc Chính
phủ cần có giải pháp hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp, đặc biệt
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc áp dụng trần lãi suất cho vay ở
thời điểm hiện tại vẫn được coi là một biện pháp cần thiết nhưng với
nhiều người chính sách này là chưa đủ và được ban hành quá chậm trễ.
Hạ lãi suất cho người tiêu dùng?
Có một thực tế là rất nhiều doanh nghiệp
trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn không chỉ phải là
thiếu vốn, lãi suất cao mà quan trọng hơn là doanh nghiệp không tiêu thụ
được hàng hóa do sức cầu của nền kinh tế rất thấp.
Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy,
chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến tính đến thời điểm 1/4 đã tăng
hơn 32% trong khi chỉ số tiêu thụ xét cùng thời điểm chỉ tăng 3,5% so
với cùng kỳ năm ngoái. Một số ngành chỉ số tồn kho tăng tới hơn 100%.
Các số liệu này cho thấy sức mua trong nước vẫn chưa được cải thiện, tổng cầu vẫn đang giảm một cách đáng lo ngại.
Trong một nền kinh tế mà tốc độ quay
vòng vốn đã giảm từ 2,3 - 2,5 lần/năm xuống còn 0,8 lần/năm thì việc
khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ phụ thuộc ở những
chính sách đưa ra mà còn là lòng tin của thị trường. Chỉ khi có lòng tin
thì người dân mới dám tiêu dùng, ngân hàng mới dám cho vay và doanh
nghiệp mới dám mở rộng sản xuất.
Với khó khăn như hiện tại, nhiều khả
năng cùng với trần lãi suất cho vay giảm, ngay trong quý này Chính phủ
sẽ có nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp khác. Điều này đã được khẳng
định trong phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 4/2012 và gói giải pháp
cứu trợ thông qua giảm, hoãn, giãn thuế đã được Bộ Tài chính trình lên
và chờ quốc hội xem xét.
Theo dự báo của T.S Võ Trí Thành, phó
viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, với những cam
kết và hành động của Chính phủ thì tháng 6 sẽ thoát khỏi đáy tăng
trưởng.
Mặc dù vậy, ông Thành cũng lưu ý nền
tảng kinh tế vẫn còn yếu và vĩ mô của kinh tế Việt Nam cũng như thế giới
còn nhiều rủi ro, hơn nữa phương cách điều hành kinh tế của Việt Nam
vẫn còn nhiều bất cập.
Cũng như ông Thành, theo đánh giá của
nhiều nhà đầu tư, cách thức điều hành kinh tế của Việt Nam trong vài năm
gần đây đang có khá nhiều bất ổn.
Trong thời gian qua, các chính sách tiền tệ thường đi sau thị trường, thông thường là đi sau các con số.
Trên thực tế, ở nhiều quốc gia phát
triển, việc điều hành tiền tệ phải biết nhìn xa trong rộng, phải biết dự
báo nền kinh tế sẽ đi về đâu trong 6 tháng đến 1 năm. Từ đó, các chính
sách phải đi trước công chúng và thị trường, chứ không thể phụ thuộc vào
các con số đã công bố gây choáng váng kiểu như lạm phát vọt lên 20%,
tồn kho tăng như núi, hay giờ đây là tình trạng phá sản, thấp nghiệp
đáng lo ngại...
Trên thực tế, NHNN đã có những báo cáo
rất chính xác về tình trạng thanh khoản "được cải thiện rất nhiều" ngay
từ đầu năm 2012. Thanh khoản sau đó đã liên tục được cải thiện và tình
trạng dư thừa tiền được chính các ngân hàng như ACB, SeABank lên tiếng
mạnh mẽ. Tuy nhiên, dường như việc bảo vệ sự ổn định của hệ thống ngân
hàng là nhiệm vụ cao cả nhất. Các doanh nghiệp sẽ là đối tượng ưu tiên
thứ hai. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thành công, tất nhiên sau đó,
các doanh nghiệp sẽ được cứu.
Nhiều người lo ngại, các chính sách còn
chạy sau thị trường thì nền kinh tế sẽ còn lao đao. Tình trạng giảm phát
của nền kinh tế hiện tại có thể nói không thể không có liên quan gì tới
các chính sách tiền tệ ưu ái cho các ngân hàng như thời gian vừa qua.
Việc huy động với lãi suất 12-14% trong khi cho vay lên tới 18-25% trong
những tháng cuối năm 2011 và 2012 là một hiện tượng hút máu nền kinhh
tế, không khác nhiều so với tình trạng cho vay nặng lãi kiểu xã hội đen.
Hơn thế, cũng có một thực tại khác là,
cho dù có áp trần lãi suất thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với
vốn vay lãi suất thấp này không phải dễ. Ngân hàng vẫn đang đối mặt với
nợ xấu và lợi nhuận chủ yếu từ tín dụng thì việc đẩy mạnh cho vay với
lãi suất thấp là không ai muốn.
Việc kích thích nền kinh tế nên chăng
tập trung vào kích cầu tiêu dùng, nhằm giảm bớt gánh nặng hàng tồn kho
của đa số các doanh nghiệp.