Không được dự báo giá chứng khoán?
Theo điều 57 (các hành vi bị cấm) của dự thảo, công ty
chứng khoán cung cấp dịch vụ đầu tư không được trực tiếp hoặc gián tiếp
thực hiện hành vi dự báo giá của chứng khoán.
Mục đích của quy định trên mới nhìn thoáng qua khá tốt
đẹp. Nó ngăn ngừa việc công ty chứng khoán đưa ra nhận định sai lệch, có
thể kích nhà đầu tư mua bán một loại cổ phiếu, trái phiếu nào đó. Nhìn
xa hơn, nó bảo vệ công ty niêm yết vì mọi động thái dẫn tới việc giao
dịch một chứng khoán theo chiều giá lên hoặc xuống có thể tác động tới
hoạt động của doanh nghiệp, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
đơn vị đó.
Nhưng thực tế không như vậy. Cái khác cơ bản của chứng
khoán so với các ngành nghề khác là sự biến động của giá cổ phiếu, trái
phiếu. Không chỉ ở Việt Nam, mà tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới
nơi thị trường chứng khoán hoạt động, người ta dự báo giá cổ phiếu. Các
tổ chức tài chính đều có bộ phận nghiên cứu, phân tích, dự báo sự biến
động giá chứng khoán. Những dự báo đó mang tính tham khảo. Tổ chức càng
chuyên nghiệp, kinh nghiệm, dự báo càng sát với thực tế, thì càng được
người ta tham khảo nhiều. Tuy nhiên, nhà đầu tư mới là người quyết định
và tự chịu trách nhiệm về giao dịch của mình.
Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó. Đã từ nhiều năm
nay những công ty chứng khoán lớn đều có bản tin phân tích, nhận định
thị trường, đánh giá các công ty niêm yết, triển vọng cổ phiếu với giá
mục tiêu khác nhau. Dự báo giá cổ phiếu sai, đúng là chuyện bình thường.
Không ai thắc mắc giá cổ phiếu dao động đúng hay không đúng nhận định
của công ty chứng khoán.
Tại sao một hành vi bình thường của chứng khoán như vậy lại bị dự thảo thông tư cấm?
Công ty chứng khoán không phải ngân hàng
Những quy định về hạn chế đầu tư, hạn chế vay nợ của dự
thảo rất chặt, mang hơi hướng điều kiện đảm bảo các chỉ tiêu an toàn
tài chính của tổ chức tín dụng. Chỉ có điều công ty chứng khoán không
phải ngân hàng thương mại, nên nếu các quy định quá chặt đó được thực
thi, nó sẽ bóp nghẹt hoạt động của một loại chủ thể trên thị trường.
Hãy xem điều 42 (hạn chế vay nợ). “Tỷ lệ tổng nợ trên
vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán không được vượt quá ba lần (giá
trị tổng nợ không bao gồm tiền gửi giao dịch của khách hàng, quỹ phúc
lợi khen thưởng, dự phòng trợ cấp mất việc, dự phòng bồi thường thiệt
hại cho nhà đầu tư); và nợ ngắn hạn tối đa bằng tài sản ngắn hạn”. Và
“công ty chứng khoán chỉ được vay tiền từ các tổ chức tín dụng”.
Khoan nói con số cố định ba lần có hợp lý. Chứng khoán
Việt Nam với tuổi đời 12 vẫn đang được thế giới xếp vào hàng “cận biên”,
chưa được lên mức “mới nổi” bởi sự biến động rất thất thường của nó.
Chính từ sự thất thường mà con số cố định ba lần trở nên cứng nhắc. Lẽ
ra tỷ lệ đó phải được điều chỉnh hợp lý theo thị trường. Ngân hàng Nhà
nước đã rút ra bài học này. Thay vì quy định tỷ lệ cho vay chứng khoán
là bao nhiêu phần trăm so với tổng dư nợ hay vốn tự có như trước đây,
nay cơ quan quản lý ngành ngân hàng chủ trương tỷ lệ cho vay chứng khoán
theo quy định từng thời kỳ. Tổng nợ và vốn chủ sở hữu là những định
lượng thường xuyên thay đổi, nên mọi tỷ lệ liên quan đến chúng cần sự
điều hành linh hoạt, uyển chuyển.
Chứng khoán Việt Nam với tuổi đời 12 vẫn đang được thế giới xếp vào
hàng “cận biên”, chưa được lên mức “mới nổi” bởi sự biến động rất thất
thường của nó. |
Thứ nữa, có nên cho phép công ty chứng khoán chỉ được
vay tiền từ tổ chức tín dụng? Thời gian qua hoạt động ủy thác đầu tư của
công ty chứng khoán bùng nổ. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân cho công ty
chứng khoán vay tiền. Trong hai năm thị trường con gấu 2010-2011, đa
phần cá nhân, tổ chức ủy thác tiền cho công ty chứng khoán lỗ nặng.
Đây hoàn toàn là quan hệ dân sự và thuộc diện điều
chỉnh của Bộ luật Dân sự. Nếu muốn ngăn ngừa hoạt động ủy thác đầu tư,
mà quy định công ty chứng khoán chỉ được vay tiền từ ngân hàng, thì
chẳng khác nào cực đoan. Doanh nghiệp thông thường được khuyến khích
nhận sự góp vốn từ mọi thành phần kể cả người thân, bạn bè để kinh
doanh. Ngân hàng là địa chỉ cuối cùng để vay mượn. Nhưng với công ty
chứng khoán thì chỉ được vay ngân hàng.
Đầu vào của công ty chứng khoán là thế, còn đầu ra thì sao?
Theo điều 44 (hạn chế đầu tư), công ty chứng khoán
không được mua, góp vốn mua bất động sản trừ trường hợp làm trụ sở hội
sở, chi nhánh, phòng giao dịch; không được sử dụng quá 40% vốn chủ sở
hữu để đầu tư mua cổ phần hoặc tham gia góp vốn vào các tổ chức khác.
Hầu hết công ty chứng khoán có chức năng tự doanh, nên
giới hạn 40% nói trên là eo hẹp. Với những công ty không có dịch vụ ký
quỹ, hỗ trợ tài chính cho khách hàng, chỉ tập trung vào nghiệp vụ tự
doanh, thì 40% là “khoảng vùng vẫy thiếu không khí”. Ngay cả khi công ty
chứng khoán sử dụng 80-90% vốn chủ sở hữu để đầu tư cổ phiếu, mức độ an
toàn cũng không phải đã đi quá xa. Còn sử dụng vốn vay để đầu tư là
chuyện khác. Ở đây không nên nhầm lẫn giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay!
Cũng cần lưu ý là ngân hàng không được đầu tư vượt quá
11% vốn tự có vào một tổ chức bởi ngân hàng có chức năng huy động vốn
trong dân, trong khi công ty chứng khoán không có chức năng này.
Các quy định mới về công ty chứng khoán là cần thiết,
nhất là trong bối cảnh tái cơ cấu khối này đang được tiến hành. Tuy
nhiên mới không có nghĩa là rời xa cuộc sống. Những quy định pháp luật
không phù hợp với thực tế sẽ khó tồn tại lâu dài.
Lưu Hảo
TBKTSG