Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định mức lương tối
thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp
tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao
động theo hợp đồng lao động, thay thế Nghị định 182/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013.
Đối tượng áp dụng gồm: Doanh nghiệp thành lập, tổ chức quản
lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam không đăng ký lại hoặc chưa chuyển đổi theo quy định); hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và
các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động; cơ
quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt
Nam có thuê mướn lao động theo hợp đồng lao động (trừ trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy
định của Nghị định này).
Mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với doanh nghiệp từ
ngày 1/1/2015 tới đây như sau: Vùng I: 3.100.000 đồng/tháng; vùng II: 2.750.000
đồng/tháng; vùng III: 2.400.000 đồng/tháng; vùng IV: 2.150.000 đồng/tháng.
Như vậy, mức lương tối thiểu vùng mới cao hơn mức lương
hiện nay khoảng từ 250.000-400.000 đồng/tháng.
Nghị định cũng nêu rõ, mức lương tối thiểu vùng như trên
là mức thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận và trả
lương, trong đó mức lương trả cho người lao động làm việc trong điều kiện lao động
bình thường, bảo đảm đủ thời giờ làm việc bình thường trong tháng và hoàn thành
định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận phải bảo đảm:
- Không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với
người lao động chưa qua đào tạo làm công việc đơn giản nhất.
- Cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng đối
với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề).
Căn cứ vào mức lương tối thiểu vùng quy định nêu trên và
các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng lao động với người lao động, thỏa ước
lao động tập thể hoặc quy chế của doanh nghiệp, doanh nghiệp phối hợp với Ban
chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động để thỏa thuận, xác định mức điều chỉnh
các mức lương trong thang lương, bảng lương, mức lương ghi trong hợp đồng lao động
và mức lương trả cho người lao động phù hợp, bảo đảm các quy định của pháp luật
lao động và tương quan hợp lý tiền lương giữa lao động chưa qua đào tạo với lao
động đã qua đào tạo và lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giữa lao
động mới tuyển dụng với lao động có thâm niên làm việc tại doanh nghiệp.
Khi thực hiện mức lương tối thiểu vùng, doanh nghiệp
không được xóa bỏ hoặc cắt giảm các chế độ tiền lương khi người lao động làm
thêm giờ, làm việc vào ban đêm, làm việc trong điều kiện lao động nặng nhọc, độc
hại, chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với các chức danh nghề nặng nhọc, độc hại
và các chế độ khác theo quy định của pháp luật lao động. Các khoản phụ cấp, trợ
cấp, tiền thưởng do doanh nghiệp quy định thì thực hiện theo thỏa thuận trong hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc trong quy chế của doanh nghiệp.
Người
lao động đã qua học nghề, bao gồm: -
Người đã được cấp chứng chỉ nghề, bằng nghề, bằng trung học nghề theo quy
định tại Nghị định 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính phủ quy định cơ cấu khung
của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục và
đào tạo. -
Người đã được cấp chứng chỉ nghề, bằng nghề theo quy định tại Luật Giáo dục
năm 1998, Luật Giáo dục năm 2005 và chứng chỉ kỹ năng học nghề quốc gia theo
quy định của Luật Việc làm. -
Người đã được cấp chứng chỉ theo chương trình dạy nghề thường xuyên, chứng
chỉ sơ cấp nghề, bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, bằng tốt nghiệp cao đẳng
nghề hoặc đã hoàn thành chương trình học nghề theo hợp đồng học nghề quy định
tại Luật Dạy nghề. -
Người đã được cấp văn bằng, chứng chỉ nghề của cơ sở đào tạo nước ngoài. -
Người đã được doanh nghiệp đào tạo nghề hoặc tự học nghề và được doanh nghiệp
kiểm tra, bố trí làm công việc đòi hỏi phải qua đào tạo nghề. |
Hoàng
Diên
Theo
Chinhphu.vn
106,209
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN