Một số hành vi như: Buôn bán người với mục đích bóc lột lao
động; lạm dụng lao động trẻ em; dùng vũ lực, dùng vũ lực để đe dọa người mang
thai phải loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính; thành lập hoặc tham gia
vào tổ chức tội phạm; chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể
người, thai nhi; vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ do người đi bộ
tham gia giao thông thực hiện; lợi dụng bán hàng đa cấp để chiếm đoạt tiền, tài
sản; tuyển dụng lao động, du học sinh bất hợp pháp; bảo kê, đòi nợ thuê theo
kiểu xã hội đen và các hành vi liên quan đến bảo hiểm xã hội… chưa được thể chế
trong BLHS. Vì thế, sửa đổi BLHS đặt ra vấn đề nghiên cứu hình sự hóa các hành
vi nói trên để có cơ sở xử lý tội phạm.

Hiện nay, Việt Nam đã tham gia một số điều ước quốc tế, đòi
hỏi cần “nội luật hóa” những quy định có liên quan để tăng cường hợp tác quốc
tế đấu tranh phòng chống tội phạm. Đơn cử, BLHS hiện hành mới chỉ có một
điều (Điều 79) quy định về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,
trong đó đề cập đến việc thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân mà chưa có quy định về vấn đề tổ chức tội phạm cũng như chưa
hình sự hóa hành vi thành lập, tham gia vào tổ chức tội phạm nói chung. Trong
khi đó, Điều 5 của Công ước Liên Hợp quốc (LHQ) về phòng, chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia yêu cầu các quốc gia thành viên phải hình sự hóa việc
tham gia vào một nhóm tội phạm có tổ chức. Với tư cách là thành viên của Công
ước này, Bộ Tư pháp cho rằng Việt Nam cần phải hình sự hóa hành vi thành lập,
tham gia vào tổ chức tội phạm.
Trong những năm qua, tình hình diễn biến tội phạm ngày càng
nghiêm trọng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, trong đó đáng chú ý là “tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm
hoạt động dưới dạng băng nhóm bảo kê, siết nợ, đòi nợ thuê, bắt giữ người trái
pháp luật gia tăng”. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thấu đáo vấn đề này để bổ
sung vào BLHS. Theo quy định của BLHS hiện hành thì chủ thể của nhóm tội phạm
tham nhũng là những người có chức vụ, quyền hạn làm việc trong các cơ quan, tổ
chức của Việt Nam, bao gồm: cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (những người thi hành công vụ). Còn
những người có chức vụ, quyền hạn của nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ hoặc làm việc ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các Cty 100% vốn
đầu tư nước ngoài, các Cty liên doanh có vốn nhà nước tham gia, Cty CP, hợp tác
xã (như giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho…) không phải là chủ
thể của tội tham nhũng.
Theo Bộ Tư pháp, với tư cách là thành viên của Công ước LHQ
về chống tham nhũng, Việt Nam phải hình sự hóa một số hành vi tham nhũng được
nêu trong Công ước như hối lộ trong khu vực tư; biển thủ tài sản trong khu vực
tư; hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế. Qua thực
tiễn thi hành BLHS, ở nước ta đã xuất hiện trường hợp vì lợi ích của cơ quan,
tổ chức hoặc địa phương mình mà cá nhân Việt Nam đã thực hiện hành vi đưa hối
lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính
phủ nhưng chúng ta không có cơ sở pháp lý để xử lý hình sự đối với các đối
tượng này về hành vi nhận hối lộ cũng như đưa hối lộ. Tương tự, việc không coi
người có chức vụ, quyền hạn làm việc ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là chủ
thể tội phạm tham nhũng đã dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, xử lý không
công bằng.
PV
Theo congly.com.vn
5,155
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN