Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 39/2013/TT-NHNN quy định về việc xác định, trích lập, quản lý và sử dụng khoản dự phòng rủi ro của Ngân hàng Nhà nước.

|
Ảnh
minh họa |
Theo Thông tư, hàng năm, Ngân hàng Nhà nước trích lập dự
phòng rủi ro và hạch toán vào chi phí bằng 10% chênh lệch thu, chi chưa bao gồm
khoản chi dự phòng rủi ro. Số dư dự phòng rủi ro sau thời điểm trích lập không
vượt quá số dự phòng rủi ro cần phải trích lập.
Khoản dự phòng rủi ro được sử dụng chung để bù đắp những tổn
thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình hoạt động sau khi đã được bù
đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất và tổ chức bảo
hiểm (nếu có).
Theo Thông tư, khoản dự phòng rủi ro chưa sử dụng hết trong
năm được chuyển sang năm sau sử dụng tiếp. Trường hợp khoản dự phòng rủi ro
không đủ bù đắp các tổn thất, việc xử lý phần còn thiếu sẽ được thực hiện theo
quy định tại Chế độ tài chính hiện hành của Ngân hàng Nhà nước.
Trường hợp số dự phòng rủi ro cần phải trích lập nhỏ hơn số
dư dự phòng rủi ro trước thời điểm trích lập, Ngân hàng Nhà nước thực hiện hoàn
nhập phần chênh lệch vào thu nhập của Ngân hàng Nhà nước.
Thông tư cũng quy định rõ việc phân loại tài sản có rủi ro,
phương pháp xác định và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro. đồng thời, quy định sử
dụng khoản dự phòng rủi ro để xử lý tổn thất. Trong đó, Thông tư quy định rõ,
thời điểm xác định, trích lập và hạch toán dự phòng rủi ro là thời điểm cuối kỳ
kế toán năm (cuối ngày 31/12 hàng năm).
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định sử dụng khoản dự
phòng rủi ro để xử lý các khoản tổn thất trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
trên cơ sở đề nghị của Hội đồng xử lý tổn thất. Riêng đối với các khoản nợ (gốc
và lãi) được xóa theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhưng không được Chính
phủ cấp nguồn đề bù đắp cho Ngân hàng Nhà nước; các khoản thanh toán với Nhà nước
và Ngân sách Nhà nước được xử lý theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì Hội
đồng xử lý tổn thất phải báo cáo, trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước lấy ý kiến
Bộ Tài chính và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi lập
phương án xử lý.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2014.
Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng Nhà nước là tổn
thất có khả năng xảy ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng Nhà nước bao
gồm: Khả năng tổn thất đối với tài sản có rủi ro của Ngân hàng Nhà nước do
khách hàng, đối tác không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần
hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết; khả năng tổn thất do việc giảm
giá các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ, vàng và chứng khoán đã đầu tư; khả
năng tổn thất do những nguyên nhân bất khả kháng khác. Khoản dự phòng rủi ro là tổng số tiền dự phòng
rủi ro đã được trích lập, hạch toán vào chi phí qua các năm để bù đắp tổn thất
trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. |
Bảo Lâm
Theo Báo điện tử Chính phủ
12,365
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN