Tuổi trẻ tham gia bảo vệ môi trường. Ảnh: MH
Thứ nhất, về tiêu chuẩn
môi trường, cần quy định nội dung có liên quan phù hợp với quy định của
Luật này theo hướng xem việc áp dụng bắt buộc các quy chuẩn môi trường
là một trong những biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ
môi trường; xây dựng và áp dụng quy chuẩn môi trường cũng như các loại
quy chuẩn khác cần xuất phát từ điều kiện kinh tế, hiện trạng cơ sở vật
chất – kỹ thuật và mặt bằng công nghệ; phù hợp với trình độ phát triển,
trình độ dân trí, với hiện trạng nền kinh tế và đảm bảo phát triển kinh
tế - xã hội một cách bền vững.
Thứ hai, hoạt động đánh
giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện nay vẫn bộc lộ nhiều bất cập và
yếu kém cả về chất lượng cũng như việc thực thi, chấp hành đúng các quy
định của pháp luật cần phải được nghiên cứu để chỉnh sửa, bổ sung cho
phù hợp. Cụ thể, hiện nay nhiều báo cáo đánh giá tác động môi trường
được coi như một thủ tục nhằm hợp thức hóa quá trình thẩm định và phê
duyệt các dự án và các hoạt động đầu tư.
Việc xác định ranh giới giữa đánh giá
tác động môi trường và cam kết BVMT; quy định vai trò chủ dự án tự và tổ
chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường v.v… còn
bất cập, yêu cầu về trình độ, năng lực của cá nhân, tổ chức nhằm đảm bảo
để thực hiện dịch vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường trung
thực, chưa đáp ứng được yêu cầu v.v…
Thứ ba, theo kết quả
thanh tra của Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT), có hơn 90% số cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được thanh tra không xử lý chất thải trước
khi thải ra môi trường. Hơn 70% các khu công nghiệp, hơn 90% các khu đô
thị, dân cư không có hệ thống xử lý nước thải tập trung; hầu hết các
làng nghề đang trong tình trạng báo động về ô nhiễm môi trường. Có hàng
ngàn cơ sở đang hoạt động thuộc diện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
phải xử lý triệt để v.v… Vì vậy, các quy định về bảo vệ môi trường
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ đề nghị cũng cần phải được
nghiên cứu, cân nhắc để quy định phù hợp tại Luật BVMT (sửa đổi).
Thứ tư, Luật Bảo vệ môi
trường 2005 quy định cụ thể về bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư bao
gồm các vấn đề về quy hoạch, yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với đô
thị, khu dân cư tập trung; bảo vệ môi trường nơi công cộng v.v… Do đó,
các quy định về bảo vệ mô trường đô thị, khu dân cư tại Luật Bảo vệ môi
trường 2005 cần được đánh giá đúng mức để quy định phù hợp trong Luật
sửa đổi.
Thứ năm, trong những
năm qua, bảo vệ môi trường đối với nước biển, nước sông và các nguồn
nước khác chưa được qun tâm đúng mức, do khai thác quá mức và sử dụng
các biện pháp đánh bắt mang tính hủy diệt làm cho các nguồn lợi thủy sản
bị suy giảm nghiêm trọng; môi trường biển, nước sông và các nguồn nước
khác bị ô nhiễm nghiêm trọng. Do đó, trong Luật Bảo vệ môi trường (sửa
đổi) cần phải xem xét, cân nhắc để quy định phù hợp vấn đề này.
Thứ sáu, về quản lý
chất thải, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã có quy định riêng một
chương với bốn mục về quản lý chất thải. Tuy đã đạt được những kết quả
nhất định, nhưng thực tế triển khai vẫn gặp nhiều khó khăn, kết quả còn
hạn chế nhiều so với yêu cầu đặt ra. Do tính chất và diễn biến ngày càng
phức tạp của việc quản lý chất thải và tình trạng ô nhiễm môi trường,
nên các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 trong
lĩnh vực này hiện vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ; việc phân loại chất
thải tại nguồn tuy đã được quan tâm nhưng còn khó khăn trong triển khai
thực tế; công tác quản lý chất thải, nhất là chất thải nguy hại ở các đô
thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế.
Thứ bảy, Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 quy định khá cụ thể về việc phòng ngừa sự cố môi
trường, an toàn sinh học, an toàn hóa chất, an toàn hạt nhân và an toàn
bức xạ; ứng phó sự cố môi trường và xây dựng lực lượng ứng phó sự cố môi
trường; quy định về khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường.
Tuy nhiên, theo đánh giá của cơ quan
chuyên môn và các chuyên gia, mục tiêu quy hoạch là xây dựng mạng lưới
quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia đến nay vẫn còn hạn
chế, chưa bảo đảm kịp thời việc phát hiện diễn biến bất thường về bức xạ
trên lãnh thổ Việt Nam và hỗ trợ việc chủ động ứng phó sự cố bức xạ, sự
cố hạt nhân; việc cung cấp cơ sở dữ liệu về phóng xạ môi trường phục vụ
công tác quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, an
toàn hạt nhân v.v… còn bất cập. Do đó, Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)
cũng cần phải được nghiên cứu để quy định phù hợp vấn đề này.
Mặt khác, Luật Bảo vệ môi trường 2005
quy định Thanh tra môi trường là thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ
TN&MT. Thanh tra bảo vệ môi trường có trách nhiệm kiểm tra, thanh
tra việc thực hiện bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ thuộc thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
của Bộ TN&MT, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ v.v…
Tuy đã có rất nhiều cố gắng, nhưng thời
gian qua hoạt động này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, năng lực thanh tra
của một số cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về bảo vệ môi trường
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, việc kiểm tra chưa được thường xuyên,
sát sao, nên chưa kịp thời phát hiện được nhiều vụ vi phạm pháp luật môi
trường có tính nghiêm trọng v.v…
Đặc biệt, về bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm, suy thoái môi trường, Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) cần quy
định cụ thể hơn trách nhiệm của các bộ, ngành hữu quan trong việc xây
dựng các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ
chức giải quyết hiệu quả vấn đề bồi thường thiệt hại về môi trường.
Cần đặc biệt quan tâm đến các vấn đề bảo
hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường, trong đó, quy định
rõ các nội dung như đối tượng phải mua phí bảo hiểm môi trường, mức phí
bảo hiểm môi trường, phạm vi bảo hiểm, mức tiền chi trả bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm…
Để thúc đẩy hội nhập, đặc biệt trong bối
cảnh môi trường nổi lên như những yếu tố hết sức quan trọng trong hội
nhập kinh tế quốc tế, như vậy, Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) cần quy
định cụ thể các cơ chế để các DN tiếp cận được các chính sách cũng như
các yêu cầu về môi trường theo hướng ưu tiên chú trọng các thị trường
tiềm năng và các bạn hàng thường xuyên của Việt Nam; tạo cơ chế, chính
sách thông thoáng và cởi mở thúc đẩy áp dụng hệ thống quản lý môi trường
hiện đại, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và các mô hình quản lý môi trường
hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc tế khác…
Vũ Ngọc Sáng
Theo Pháp luật Việt Nam
13,893
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN