- Sau vụ Tiên
Lãng, nhiều người đã nhìn ra sự bất cập về thời hạn giao đất trong Luật
Đất đai. Ông nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?
- Bất cập lớn nhất của Luật Đất đai đúng là nằm ở thời
hạn sử dụng đất. Luật Đất đai 1993 đưa ra chế định về thời hạn cho đất
trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản là 20 năm, đất trồng cây lâu
năm và rừng sản xuất là 50 năm. Như vậy cứ hết hạn thì xã hội nông thôn
sẽ náo loạn vì chuyện phải xin được giấy chứng nhận sử dụng đất hiệu
quả để được tiếp tục sử dụng đất. Điều đó dẫn tới nguy cơ về tham nhũng,
nguy cơ về lộn xộn, khó khăn cho người nông dân.
Đấy là phức tạp mà khi xây dựng Luật Đất đai 2003 đã
nhìn ra, nhưng lúc đó ý tưởng giải quyết khi hết thời hạn giao đất là
khác nhau. Một luồng ý tưởng cho rằng hết thời hạn phải chia lại vì mặt
bằng lao động đầu và cuối thời hạn khác nhau, lực lượng lao động khác
nhau (có người chết đi, người sinh ra, người chuyển đi nơi khác…).
Luồng ý kiến thứ hai, hết thời hạn đương nhiên tiếp
tục kéo dài, thậm chí kéo tới vô hạn. Tất nhiên tiếp tục kéo dài thì
chuyện đặt thời hạn là vô nghĩa. Kéo dài thời hạn cũng chỉ là "hoãn binh
chi kế". Hai luồng ý kiến này ngẫu nhiên tỷ lệ rất ngang nhau, chính vì
vậy không quyết định được hết thời hạn thì sẽ làm gì khi xây dựng Luật
Đất đai 2003.
Gần 10 năm qua, người nông dân rất lo lắng. Đáng nhẽ
chúng ta phải đi đến cùng của sự việc và phải có phán quyết gì đấy về xử
lý thời hạn trong luật 2003.
- Là người ủng
hộ phương án xóa thời hạn, ông nghĩ như thế nào về việc cần sớm điều
chỉnh thời hạn giao đất trong Luật Đất đai để tránh lặp lại vụ việc đáng
tiếc?
- Nhiều người đưa ra ý kiến thảo luận nhưng thực tế họ
không sống ở nông thôn, không hiểu người nông dân và không hiểu nông
dân đang cần gì. Sự thực nông dân cần đất, cần sự ổn định dài hạn. Người
ta sẽ bỏ tiền đầu tư, vay tiền đầu tư thậm chí tìm mọi cách để đầu tư
làm sao để có năng suất và sản lượng cao. Đấy là suy nghĩ của người nông
dân ham làm nông nghiệp.
Nếu chúng ta chỉ đứng trên phương diện thảo luận vĩ mô
về sự công bằng thì sẽ không thấy được điều đó. Từ vụ Tiên Lãng, chúng
ta thấy rằng một người nông dân đầu tư rất nhiều công sức, tiền của vào
đất để tạo lợi nhuận mà thu lại thì họ làm gì còn cửa để sống. Khi không
còn cửa để sống thì họ phải liều lĩnh trong hành vi phản kháng. Đấy là
cảnh mà chính quyền đã dồn người nông dân vào cùng quẫn. Nếu không xử lý
tốt thì tôi tin là còn nhiều vụ Tiên Lãng sẽ xảy ra. Lúc này, vụ Tiên
Lãng là hồi chuông cảnh tỉnh cho những người còn lơ mơ trong tư duy về
mục tiêu xây dựng pháp luật đất đai, chưa hiểu rõ nông dân đang cần gì.
Khẩu hiệu "người cày có ruộng" của Đảng ta từ năm 1930 vẫn đang rất thời
sự trên các cánh đồng nước ta.
- Như ông nói, phương án chia lại đất đảm bảo sự công bằng về sử dụng đất nông nghiệp, tại sao không được thống nhất?
- Phương án này có thể đảm bảo được sự công bằng về sử
dụng đất nông nghiệp, đảm bảo được quỹ đất nông nghiệp cứ một thời gian
ngắn thì dàn đều. Tuy nhiên, cách làm như vậy có rất nhiều cái hại. Thứ
nhất là liên tục cứ 20 năm, 50 năm lại làm cải cách ruộng đất một lần.
Cái đó gây náo loạn nông thôn nhiều hơn là việc lấy giấy xác nhận sử
dụng đất có hiệu quả. Chia lại thì có hệ quả là tham nhũng còn nhiều hơn
việc xin giấy xác nhận sử dụng đất có hiệu quả vì có đất tốt, đất xấu,
đất gần thủy lợi, xa thủy lợi…
Cái hại thứ hai là không khuyến khích được đầu tư. Ai
cũng nhăm nhăm nếu mình có được đất thì cũng chỉ có được 20 năm, 50 năm.
Trong thời hạn, người ta sẽ cố gắng vét cạn, vắt kiệt sức của đất, mặc
kệ người dùng tiếp theo tính thế nào thì tính. Như vậy, năng suất và sản
lượng không bao giờ nâng cao được, động lực sử dụng đất nông nghiệp cạn
dần còn đất đai không có đầu tư và bồi bổ nên chẳng mấy chốc mà thành
xơ xác.
Đối với phương án thứ hai, gia hạn tự động, ai có thế
nào thì hết thời hạn cứ tự động chuyển sang thời hạn tiếp theo. Phương
án này tương đương xóa thời hạn. Còn nếu làm theo cách tiếp tục tăng
thời hạn dài hơn, chưa cần tính đến hết thời hạn làm gì thì đó là một
giải pháp "cải lương". Cuối cùng thì chúng ta vẫn phải trả lời câu hỏi
"hết thời hạn chúng ta làm gì?"
Tôi cho rằng phương án đúng hơn cả là hãy xóa bỏ thời
hạn. Xóa thời hạn thì được cái lợi cơ bản là người nông dân có tâm lý ổn
định, dám đầu tư dài hạn, đầu tư lớn. Người nông dân dám đầu tư để nâng
thật cao năng suất, sản lượng nhằm làm giàu trên đất đai. Chắc chắn đây
là cách thức để ta tạo được động lực mới trong nông nghiệp, nông thôn
và cho nông dân.
- Nhưng nếu thực thi phương án xóa thời hạn, chúng ta sẽ phải đối mặt với nạn đầu cơ đất, phân hóa giàu nghèo... Ông nghĩ sao?
- Tất nhiên, nhiều ý kiến đặt ra là những tiêu cực kèm
theo có thể có. Ví dụ, nếu bỏ thời hạn thì tạo điều kiện cho đầu cơ đất
đai, sẽ hình thành lớp “địa chủ” mới, sẽ cũng làm những việc trước đây
giai cấp địa chủ trong các chế độ phong kiến đã từng làm. Hoặc có thể
tạo ra những người có đất nhưng không đưa vào sử dụng mà mang tính chất
đầu cơ sinh lợi, chờ giá đất lên… Có thể xảy ra tình trạng phân hóa giàu
nghèo ngay trong khu vực nông thôn.
Nhưng phải nhìn nhận là nhược điểm ấy có thể dùng thời
hạn để khống chế được không? Khi người giàu có tiền để "đút lót" lấy
được giấy xác nhận về sử dụng đất có hiệu quả thì họ cũng vượt qua được
thời hạn để tiếp tục sử dụng. Vì vậy, với việc đưa ra thời hạn chưa chắc
chúng ta quản lý được việc không hình thành lớp “địa chủ mới”. Chúng ta
nên dùng các chế tài khác tốt hơn như đánh thuế cao người không trực
tiếp sản xuất mà có nhiều đất, đánh thuế cao vào người có đất nhưng
không sử dụng, thậm chí có thể "sung công" đất đối với người có hành vi
phát canh thu tô...
- Nếu đất đã giao ổn định lâu dài thì những người sinh sau đẻ muộn lấy đâu ra đất để sản xuất?
- Tôi có thể giải thích ngay, hiện 70% dân số chúng ta
sống dựa vào nông nghiệp. Thế nhưng khi ta trở thành nước công nghiệp
thì nhiều nhất chỉ còn 50% ở nông thôn. Khi là nước công nghiệp phát
triển thì dân số ở nông thôn chỉ còn 10% là cùng. Vậy thì chúng ta đừng
bắt con em nông dân phải là nông dân tiếp. Chúng ta hãy nghĩ đến việc
đào tạo con em nông dân không làm nông dân nữa mà chuyển sang làm ở lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ.
Bây giờ chúng ta đang ép dân số ở khu vực nông thôn từ
70% xuống còn 30% trong những năm 2020-2030 theo lộ trình đô thị hóa.
Tất nhiên, một số con em nông dân làm nông nghiệp giỏi thì phải khuyến
khích tiếp tục làm nông nghiệp...
 |
Ông Đặng Hùng Võ: "Nếu không xử lý tốt thì tôi tin là còn nhiều vụ Tiên Lãng sẽ xảy ra". Ảnh: Nguyễn Hưng. |
- Hình thức giao đất lâu dài cho nông dân có thể mâu thuẫn với quy định “đất đai là sở hữu toàn dân”. Ông nghĩ sao về điều này?
- Chúng ta đã thực hiện những bước đổi mới rất mạnh
dạn, đó là việc giao đất của hợp tác xã cho hộ nông dân. Chính sách này
đã không chỉ giúp đất nước thoát khỏi cảnh thiếu ăn mà còn đưa nước ta
lên hàng đầu thế giới trong xuất khẩu gạo. Thực chất, chính sách này
không đúng với mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta đã dám
quyết định thì tại sao lại không dám đổi mới những cái tiếp theo? Sự
thực chúng ta đã phát triển và vượt lên được khi chúng ta giao đất của
hợp tác xã cho hộ gia đình, cá nhân. Đấy là quyết định mà ai cũng thấy
đúng.
Khi kỷ niệm ngày sinh của đồng chí Võ Chí Công, chúng
ta thường nhắc đến đây là công rất lớn của đồng chí. Chúng ta thấy lý
luận chúng ta đúng vì hình thức hợp tác xã không phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất hiện tại. Cũng như bây giờ tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay đang cần được giao đất lâu
dài mới tạo được động lực tiếp theo cho nông nghiệp. Điều đó là đúng chứ
không có gì khác với giao đất cho hộ gia đình trước đây.
Còn chuyện đất đai sở hữu toàn dân và giao đất là hai
chuyện có thể coi là độc lập theo một nghĩa nhất định. Một mặt chúng ta
nói “đất đai là sở hữu toàn dân” mà chúng ta vẫn cho người sử dụng đất ở
thời hạn vĩnh viễn, vẫn cho người sử dụng đất được thực hiện là 7
quyền. Chỉ riêng chuyện ấy đã là trái ngược với sở hữu toàn dân rồi.
Chúng ta thấy sở hữu toàn dân thuộc phạm trù hình thức, còn việc giao
đất lâu dài, giao quyền cho người sử dụng đất thuộc phạm trù nội dung.
Đất ở bây giờ chúng ta giao lâu dài, vậy tại sao lại khó khăn khi hạn
chế thời hạn đối với đất nông nghiệp?
- Với điều kiện hiện tại của Việt Nam, để chuyển sang phương án giao đất lâu dài, cần làm gì để tránh các bất cập?
- Tôi cho rằng chúng ta đưa ra song hành chính sách
giao lâu dài với rà soát lại mặt bằng sử dụng đất ở nông thôn hiện nay.
Ai là người có đất mà không sử dụng, chúng ta có thể đưa ra cơ chế như
chuyển nhượng bắt buộc cho những người trực tiếp sản xuất có nhu cầu mở
rộng đất sản xuất, chuyển nhượng có thể thông qua đấu giá. Tất nhiên, đã
quyết định sử dụng đất nông nghiệp không thời hạn thì không còn chế độ
Nhà nước giao đất không thu tiền nữa.
Cơ chế chuyển nhượng bắt buộc là bảo đảm tính mềm dẻo.
Theo Luật Đất đai hiện hành thì chúng ta phải thu hồi đất không sử
dụng. Còn những người đang sử dụng đất nông nghiệp không do được Nhà
nước giao hoặc được Nhà nước công nhận thì cũng chỉ được sử dụng theo
đúng thời hạn của các văn bản gốc.
- Với quá trình như vậy, trong bao nhiêu năm có thể hoàn tất để xã hội nông thôn ổn định sản xuất?
- Tôi cho rằng nếu tích cực quản lý xã hội nông thôn
thì chỉ trong vòng 5 năm chúng ta có thể giải quyết được 80% những bất
cập trong quá trình chuyển đổi. Trong 10 năm chắc chắn chúng ta giải
quyết được hoàn toàn. Tôi tin là như vậy, nhưng tất nhiên với điều kiện
là các chính sách phải được thực hiện triệt để, địa phương không được
làm "méo mó" các chính sách đã đưa ra trong luật.
Nguyễn Hưng thực hiện
3,282