Năm
2020 sẽ có 150 luật sư đạt chuẩn quốc tế
Với sự phát triển chung của xã hội, thời
gian qua đội ngũ luật sư Việt Nam đã có bước tiến đáng ghi nhận về số lượng và
chất lượng. Tuy nhiên, số lượng luật sư giỏi, thông thạo pháp luật quốc tế và
ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp thương mại, tư vấn cho các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp trong đàm phán, kinh doanh có yếu tố nước ngoài còn chiếm tỷ
lệ rất thấp. Chính vì thế, mục tiêu tổng quát của Đề án 123 là xây dựng đội ngũ
luật sư giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu luật pháp và tập quán thương mại
quốc tế, thông thạo tiếng Anh, thành thạo kỹ năng hành nghề luật sư quốc tế, có
đủ khả năng tư vấn các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế.
Để triển khai mục tiêu trên, Đề án 123
đã vạch ra mục tiêu cụ thể là đến năm 2020 số lượng luật sư được đào tạo chuyên
sâu trong lĩnh vực thương mại, đầu tư là 1.000 người; số luật sư đạt tiêu chuẩn
quốc tế là 150 người, bao gồm cả những người được đào tạo hoặc tự đào tạo nhưng
được thu hút theo chính sách của Đề án. Chương trình đào tạo luật sư thương mại
quốc tế cần được xây dựng trên cơ sở chương trình chuẩn của các nước tiên tiến
trên thế giới, phù hợp với yêu cầu, điều kiện của Việt Nam và áp dụng thống nhất
cho các trung tâm đào tạo liên kết. Chính vì thế, kỹ năng hành nghề luật sư quốc
tế, đặc biệt là các kỹ năng giải quyết tranh chấp thương mại; tư vấn pháp luật
trong các giao dịch thương mại quốc tế; kiến thức pháp luật về kinh doanh, thương
mại quốc tế; tiếng Anh pháp lý… là những vấn đề được ưu tiên.
Dự
thảo còn thiên về kiến thức chung
Hiện nay, các cơ sở đào tạo luật ở Việt
Nam như ĐH Luật, Khoa Luật, ĐH Quốc gia, ĐH Ngoại thương, ĐH Ngoại giao... mới
trang bị bước đầu các kiến thức về thương mại quốc tế cho sinh viên, chưa có một
cơ sở nào đào tạo toàn diện các kiến thức về thương mại quốc tế và kỹ năng của
luật sư trong việc tư vấn, tham gia giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Thực tế này vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn cho Học viện Tư pháp (đơn vị xây
dựng Dự thảo), bởi chưa có kinh nghiệm thực tế, lại phải xây dựng được một chương
trình thỏa mãn yếu tố hội nhập trên nền tảng không nhiều về số lượng luật sư đạt
tiêu chuẩn hội nhập, có tiếng Anh chuyên ngành sâu.
Hơn nữa, đây là một chương trình đào tạo
đặc thù, sau đại học, ưu tiên vào kỹ năng nghề chính vì thế lựa chọn đối tác nước
ngoài phối hợp đào tạo thỏa mãn các điều kiện về tài chính, chương trình đào tạo
cũng không hề đơn giản. Quan điểm của Bộ Tư pháp là không “nhập khẩu chương
trình”, mà phải xây dựng chương trình made in Việt Nam. Đã có rất nhiều đối tác
tiếp cận, song đối tác đồng ý hợp tác xây dựng chương trình trên cơ sở chương
trình khung của họ, phù hợp với Việt Nam thì đơn giá cao; còn đối tác đơn giá
thấp thì lại yêu cầu nhập khẩu chương trình đào tạo. Ngoài ra, vì đây là chương
trình đào tạo thực hiện đề án của Chính phủ, nên kinh phí đào tạo sẽ do Chính
phủ quyết định. Nếu đào tạo thiên về chất lượng (20 - 30 học viên) thì không thỏa
mãn điều kiện tài chính, chi phí cao; còn nếu đào tạo thiên về số lượng (bảo đảm
thu - chi) thì không thỏa mãn yêu cầu về chất lượng của Đề án 123.
Đại diện Học viện Tư pháp, Bộ Tư pháp
chia sẻ, việc đào tạo luật sư theo Dự thảo chủ yếu tập trung vào trang bị các kỹ
năng chung và kỹ năng hành nghề trong một số lĩnh vực phổ biến như tranh tụng
trong vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính để
nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đủ về số lượng luật sư theo yêu cầu cải cách tư
pháp. Các kỹ năng liên quan tới giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế chưa
được đề cập một cách toàn diện và chuyên sâu trong chương trình đào tạo luật sư
hiện nay.
Liên quan đến khối lượng kiến thức nhiều
ý kiến cho rằng, chương trình còn nặng về kiến thức chung, mà chưa xây dựng được
nét riêng (phục vụ hội nhập), nét đặc thù (luật sư chuyên về thương mại quốc tế),
đặc biệt yếu tố tiếng Anh pháp lý còn bị xem nhẹ. Mặc dù, chương trình được xây
dựng dựa theo tín chỉ, nhưng điều kiện thực tế triển khai như thế nào thì Học
viện Tư pháp chưa tính cụ thể. Hơn nữa, thực tế hiện nay luật sư có trình độ tiếng
Anh pháp lý chuyên sâu không nhiều. Điều khó hơn, luật sư nếu đã có trình độ tiếng
Anh ielts 7.0 thì tự thân họ đã sống được với nghề, và đã vậy họ không mấy mặn
mà với Đề án 123; còn nếu đầu vào tiếng Anh chỉ dừng lại ở ielts 5.0 thì không
đáp ứng được yêu cầu hội nhập như mục tiêu đặt ra của Đề án. Hiện dự thảo Chương
trình xây dựng khung theo thời lượng (12 tháng học viên phải hoàn thành 42 tín
chỉ); trong khi đó ở các cơ sở đào tạo khác (ĐH Luật thì 45 tín chỉ được học
trong 1,5 năm). Với thời gian và số lượng tín chỉ nêu trên thì e rằng chương
trình là quá nặng.
Liên quan đến đầu vào tiếng Anh, quyền Vụ
trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp Bạch Quốc An cho rằng: nếu chỉ dành vài
ba tín chỉ để trang bị tiếng Anh thì không thể giải quyết được điều gì. Tiếng
Anh cũng như kiến thức, kỹ năng nghề cần có thời gian tích lũy, một lần nữa chất
lượng đầu vào phải được đặc biệt quan tâm. Từ cách tiếp cận đó, ông An cho rằng,
không đào tạo nhiều chỉ nên chọn 20 - 30 học viên, từ đó rút kinh nghiệm, đồng
thời chờ đợi hiệu ứng từ xã hội rồi triển khai tiếp.
Cùng góc tiếp cận với ông An, đại diện
ĐH Ngoại thương chia sẻ, cần có sự lý giải kỹ hơn về tiếng Anh pháp lý, học
viên cần có ít nhất ở trình độ ielts 6.5. Để tạo được tính hấp dẫn của chương
trình thì cần xây dựng theo chuẩn quốc tế, tận dụng thế mạnh của Đề án 123 - tức
là đào tạo luật sư phục vụ hội nhập. Hơn nữa, trong thực tế, những thực hành về
thông luật (common law) phổ biến hơn luật lục địa (civil law), nhưng các đối
tác của Việt Nam hiện không chỉ dừng lại ở các nước trong hệ thống pháp luật
Anh - Mỹ nên cần có cách tiếp cận khái quát hóa hơn với những vấn đề nóng như
chống bán phá giá, tự vệ thương mại...
Từ những phân tích trên thiết nghĩ, Dự
thảo chương trình cần bám sát yêu cầu Đề án 123. Từ Đề án 123 tính đến thực tế
của đội ngũ luật sư hiện nay cũng như điều kiện hành nghề của họ. Bên cạnh, việc
tính đến việc đáp ứng yêu cầu hội nhập thì cũng cần chuẩn bị những bước dài hơi
hơn trong việc xây dựng một chương trình chuẩn khung quốc gia trong việc đào tạo
luật sư tư vấn, tranh tụng trong thương mại quốc tế. Hơn nữa, để tạo sự hấp dẫn
đối với học viên, cần phải tính đến sự liên thông với các chương trình đào tạo
khác như công chứng viên, chấp hành viên, 3 chung (kiểm sát viên, thẩm phán, luật
sư) hay chương trình thạc sĩ ứng dụng mà ĐH Luật đang đào tạo; đồng thời để bảo
đảm tính bền vững của chương trình phải đào tạo cả giảng viên, bên cạnh việc
thuê giáo viên nước ngoài.
Hải Toàn
Theo Đại
Biểu Nhân Dân
4,296
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN