T
hủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ngày
04 tháng 02 năm 2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký
kết giữa 12 nước, gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,
New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam, có quy mô kinh tế chiếm 40%
GDP và 30% thương mại toàn cầu. Đây là một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
– được kỳ vọng trở thành hình mẫu cho phát triển thương mại khu vực và thế giới
với yêu cầu cao hơn trong bối cảnh lực lượng sản xuất phát triển rất nhanh và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Việc
nước ta ký Hiệp định TPP không chỉ là kết quả của quá trình 5 năm kiên trì đàm
phán với tinh thần vừa hợp tác vừa đấu tranh, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm
mục tiêu cao nhất. Sâu xa hơn, đây là thành quả của tiến trình 30 năm đổi mới,
trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng, ngày càng được khẳng
định mạnh mẽ và kiến giải sâu sắc qua các Nghị quyết của Đảng. Đây còn là những
trải nghiệm rút ra từ thực tiễn hội nhập của nước ta sau khi ký kết và thực thi
Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN,
các Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các đối tác và gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO)… Hội nhập kinh tế quốc tế còn là một nội hàm quan trọng
trong thể chế kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng.
I
Thực
hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, trong các nhiệm kỳ Đại hội
X và XI, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chấp thuận đề nghị của Chính phủ về
đàm phán tham gia một số Hiệp định Thương mại tự do mới. Đây là những Hiệp định
có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn cam kết trong WTO và các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) đã ký trước đây. Đặc biệt, TPP và FTA với EU là những Hiệp
định toàn diện, cân bằng lợi ích, với những cam kết mở cửa thị trường sâu rộng
cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức
cao và những cam kết về thể chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước, mua
sắm công… nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng.
Các Hiệp định này còn bao gồm các nội dung tuy không phải là thương mại trực tiếp
nhưng có liên quan đến thương mại như môi trường và lao động. Với những nội hàm
chủ yếu nêu trên, TPP cùng với FTA Việt Nam-EU được gọi là Hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới.
TPP
là Hiệp định tiếp cận thị trường toàn diện, bảo đảm sự dịch chuyển tự do ở mức
độ cao hơn của hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ thông qua việc cam kết loại
bỏ nhanh thuế xuất khẩu, nhập khẩu và rào cản phi quan thuế; tạo lập môi trường
kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử; tạo thuận lợi cho thương mại và đầu
tư, qua đó đem lại lợi ích nhiều hơn cho sản xuất kinh doanh, người lao động
cũng như người tiêu dùng.
TPP
sẽ thúc đẩy hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng mới trong thị trường 12
nước thành viên; tạo điều kiện để phát triển mạnh thương mại nội khối; nâng cao
hiệu quả kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện đời sống của người dân; góp phần giải quyết những thách thức
trong nền kinh tế đương đại, khuyến khích đổi mới, sáng tạo, phát triển nền
kinh tế số, xây dựng chính sách cạnh tranh và quy tắc hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước cũng như bảo vệ các quyền cơ bản của người lao động và bảo vệ môi trường.
Hiệp định còn có các quy định bảo đảm cơ hội để các nền kinh tế thành viên có
trình độ phát triển khác nhau và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể được
hưởng lợi; giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội để
phát triển. TPP cũng bao gồm các cam kết về hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực
và có sự linh hoạt về lộ trình thực thi, phù hợp với sự khác biệt về trình độ
phát triển để các bên có khả năng đáp ứng cam kết và tận dụng đầy đủ lợi ích của
Hiệp định. Đồng thời, quy định cơ chế giám sát thực thi và chế tài xử lý các vi
phạm.
TPP
tôn trọng thể chế chính trị của mỗi nước; thừa nhận yêu cầu phải tuân thủ đầy đủ
pháp luật quốc gia, phù hợp với các cam kết quốc tế và không bao gồm các nội
dung liên quan đến quốc phòng, an ninh. Hiệp định cũng được kỳ vọng là tạo ra một
nền tảng mới cho hội nhập kinh tế khu vực và tạo cơ hội cho các quốc gia khác
trên vành đai châu Á-Thái Bình Dương tham gia.
Trong
điều kiện trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp và còn nhiều khó khăn,
việc chủ động quyết định tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc
biệt là TPP với tinh thần sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh, nỗ lực vượt qua thách
thức, tranh thủ cơ hội để vươn lên phát triển nhanh và bền vững, thể hiện bản
lĩnh chính trị, tư duy sắc bén và tầm nhìn thời đại của Đảng và Nhà nước ta.
Đây còn là sự khẳng định niềm tin vào ý chí, khả năng và sức mạnh của con người
Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
II
TPP
cùng FTA với EU sẽ mang lại nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít
khó khăn thách thức đối với nước ta.
Các
Hiệp định này sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt
là trong thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu với các nền kinh tế lớn nhất thế
giới, trong đó EU gồm 28 thành viên với GDP trên 18 nghìn tỷ USD và TPP hiện có
12 thành viên với GDP trên 20 nghìn tỷ USD. Đây là những khu vực có công nghệ
nguồn, thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư lớn nhất của Việt Nam liên tục
trong nhiều năm qua. Nếu tính đến tác động cộng hưởng của các Hiệp định này với
các FTA đã ký hoặc đang đàm phán, cơ hội còn lớn hơn nhiều vì nước ta sẽ có quan
hệ thương mại tự do với 55 quốc gia, trong đó có 15 nước thuộc nhóm G20.
Xuất
khẩu và đầu tư có vai trò quyết định cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm,
nâng cao đời sống dân cư, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người
và tiêu dùng nội địa của nước ta còn thấp. Tăng tỷ trọng xuất nhập khẩu với các
thị trường này cũng làm cho quan hệ thương mại với các nước cân bằng hơn. Những
cam kết trong các Hiệp định là những khung khổ, chuẩn mực để góp phần hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường hiện đại và thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng. Tham gia các Hiệp định này còn là một bước tiến mới trong
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là tại một
khu vực đang diễn ra cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt.
Cùng
với những cơ hội thuận lợi, các Hiệp định này cũng đặt ra những khó khăn thách
thức không nhỏ. Đó là, cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường
các nước tham gia Hiệp định mà ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ:
sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia – đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng thể
chế và môi trường kinh doanh. Trước sức ép cạnh tranh, một số doanh nghiệp sau
thời gian chuyển đổi, tái cơ cấu nếu không vươn lên được có thể phải giải thể
hoặc phá sản, một bộ phận người lao động sẽ mất việc làm; khu vực nông nghiệp
và nông dân dễ bị tổn thương; khoảng cách giàu nghèo sẽ bị doãng ra nếu chúng
ta không thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm
cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của tăng trưởng. Thách thức về thực
thi cũng rất lớn, từ hoàn thiện hệ thống pháp luật đến đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao năng lực cán bộ, công chức, chuyên gia kỹ thuật và pháp lý. Nội dung về
lao động-công đoàn cũng đặt ra những thách thức và yêu cầu mới trong hoạt động
của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và cả hệ thống chính trị của nước ta.
Cần
nhận thức sâu sắc rằng, cơ hội thuận lợi tự nó không chuyển thành sức mạnh kinh
tế, lợi ích và khả năng cạnh tranh trên thị trường mà phải thông qua sự nỗ lực
và hiệu quả hoạt động hướng đích của các chủ thể – Nhà nước, người dân và doanh
nghiệp. Khó khăn thách thức sẽ là sức ép không nhỏ nhưng mức độ ảnh hưởng đến
đâu phụ thuộc vào năng lực ứng phó của từng chủ thể. Nếu tận dụng tốt cơ hội
thuận lợi sẽ đẩy lùi được khó khăn thách thức, tạo ra cơ hội thuận lợi mới lớn
hơn; ngược lại, khó khăn thách thức sẽ lấn át, chúng ta sẽ bị thua thiệt và rất
khó khắc phục. Điều cần nhấn mạnh là, trong các Hiệp định thương mại tự do, cơ
hội luôn đi liền với thách thức và trong thách thức luôn ẩn chứa cơ hội – đây
cũng là biện chứng của tiến trình phát triển.
III
Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với việc hình thành
Cộng đồng Kinh tế ASEAN, tham gia các Hiệp định FTA mới, nhất là các Hiệp định
thế hệ mới – TPP và FTA với EU; và trong điều kiện công nghệ thông tin,
Internet phát triển bùng nổ, các giao dịch xuyên biên giới ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong thương mại, dịch vụ toàn cầu; cùng với những tiến bộ trong vận
tải đa phương thức và dịch vụ logistics, ranh giới giữa thị trường trong nước
và thị trường nước ngoài gần như bị san phẳng. Hệ quả là, các mô hình công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu không còn nguyên ý nghĩa kinh điển
của nó. Nhiều quốc gia chuyển sang mô hình công nghiệp hóa dựa trên sức cạnh
tranh, khai thác và tạo lập lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành lợi
thế cạnh tranh, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời
phấn đấu chiếm lĩnh các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị
đó.
Để
tận dụng cơ hội thuận lợi, vượt qua khó khăn thách thức, yêu cầu cấp bách hiện
nay là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Trong đó, cần xác
định rõ vai trò và hành động của các chủ thể trong thực thi nhiệm vụ có ý nghĩa
quyết định này.
Doanh
nghiệp là chủ thể quyết định sức cạnh tranh vi mô, phản ảnh sức mạnh và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế. Doanh nghiệp phải dũng cảm chấp nhận cạnh
tranh và phải chủ động, sáng tạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để
không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ do mình cung ứng, với
tư duy không chỉ giới hạn tại thị trường trong nước mà còn vươn ra khu vực và
thế giới. Tuy vậy, doanh nghiệp không thể tự mình quyết định được tất cả. Doanh
nghiệp phải hành động trong khung khổ thể chế và môi trường kinh doanh xác định.
Điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước.
Nhiều
nghiên cứu và từ thực tiễn các nước đều khẳng định rằng, thể chế quản trị quốc
gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh tranh vĩ mô và sự phát triển của một
nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững hay trì trệ, tụt hậu chủ yếu là do chất
lượng thể chế. Thể chế tốt, bảo đảm nhà nước pháp quyền, quyền dân chủ của người
dân và phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại sẽ khơi dậy được cao nhất sức mạnh
tổng hợp và các nguồn lực cho sự phát triển. Và như vậy, thể chế có vai trò quyết
định đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để
có một thể chế tốt, chất lượng cao, phải xác định đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường, doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng
kiến tạo phát triển, nhất là ổn định kinh tế vĩ mô; xây dựng hệ thống pháp luật,
chính sách, chiến lược, quy hoạch và tổ chức bộ máy quản lý để tạo môi trường
kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh
tranh công bằng; sử dụng nguồn lực của Nhà nước, các chính sách và công cụ điều
tiết để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh
xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống người dân; bảo vệ môi trường; bảo đảm
các dịch vụ công thiết yếu, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội,
đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thị
trường quyết định việc huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực. Doanh
nghiệp được tự quyết định kinh doanh trên các lĩnh vực mà luật pháp không cấm đồng
thời phải đề cao trách nhiệm xã hội và văn hóa kinh doanh. Xã hội – thông qua
người dân và các Tổ chức, các Hội nghề nghiệp đại diện cho mình và các chuyên
gia, các nhà nghiên cứu độc lập để đóng góp xây dựng, phản biện và giám sát thực
thi chính sách, nhằm hạn chế các khiếm khuyết của thị trường và Nhà nước.
Trên
cơ sở nhận thức đúng đắn các mối quan hệ trên đây, chúng ta phải khẩn trương tiếp
tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập quốc tế và cam kết trong các Hiệp định FTA, nhất là các FTA
thế hệ mới với tinh thần đổi mới toàn diện, đồng bộ cả kinh tế và chính trị. Tập
trung mọi nỗ lực xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân và thượng tôn pháp luật. Công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm.
Cán bộ công chức chỉ được làm và phải làm những việc theo quy định của pháp luật.
Tiếp
tục cải cách bảo đảm sự tương thích, đồng bộ giữa luật pháp, tổ chức bộ máy và
đội ngũ cán bộ công chức. Tổ chức trùng lắp, chồng chéo sẽ gây lãng phí nguồn lực
và cản trở sự phát triển. Phải dám chấp nhận đổi mới, vượt qua sức ỳ, sự bảo thủ
để hoàn thiện hệ thống tổ chức lãnh đạo quản lý, nâng cao năng lực quản trị quốc
gia, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới.
Đặt
việc cải thiện môi trường kinh doanh trong yêu cầu cải cách thể chế. Thể chế tạo
ra khung khổ, định ra giới hạn cho cải thiện môi trường kinh doanh. Không thể
có môi trường kinh doanh tốt nếu không có thể chế phù hợp. Những tiến bộ trong
cải cách thể chế phải được chuyển hóa đầy đủ sang cải thiện môi trường kinh
doanh. Điều này không chỉ liên quan đến tổ chức bộ máy mà còn gắn chặt với chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức. Phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
có phẩm chất và năng lực, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đặc biệt quan tâm
đào tạo một đội ngũ cán bộ pháp lý, các nhà quản trị doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu
hội nhập, cạnh tranh và phát triển.
Chỉ
trên nền tảng đổi mới thể chế quản trị quốc gia phù hợp mới có thể nâng cao chất
lượng, hiệu quả của tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy
nhanh áp dụng khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Cũng chỉ trên cơ sở đổi
mới thể chế phù hợp mới tạo điều kiện cho quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất,
hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn và một nền nông nghiệp sạch, có giá
trị gia tăng cao, ổn định nguồn cung để có thể tăng nhanh thị phần trên thị trường
thế giới. Nếu không, sẽ không tận dụng được cơ hội thuận lợi do TPP, FTA với EU
và các FTA mới mang lại.
TPP
cũng như FTA với EU yêu cầu doanh nghiệp nhà nước phải công khai, minh bạch hoạt
động và cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác. Phải đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước đồng thời khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là
doanh nghiệp tư nhân làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền
kinh tế.
Để
bảo đảm thành công trong hội nhập quốc tế và thực hiện hiệu quả các FTA, đặc biệt
là TPP và FTA Việt Nam - EU, trước hết phải có Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và
Chương trình hành động cụ thể của Chính phủ, các cấp các ngành và của cộng đồng
doanh nghiệp. Phải làm tốt công tác
thông tin truyền thông, tạo sự đồng thuận trong nhận thức, thống nhất trong
hành động, nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa nền kinh tế nước ta phát
triển nhanh và bền vững.
Chúng
ta đang sống trong một thời đại vận động và phát triển rất nhanh, thế giới đang
bước vào làn sóng công nghiệp lần thứ tư, tiến trình công nghiệp hóa ngày càng
được rút ngắn. Nếu có quyết tâm cao và ý chí vươn lên mạnh mẽ, tinh thần sáng tạo
và chiến lược tăng trưởng đúng đắn, nước đi sau có thể đuổi kịp và vượt quốc gia
đã có trình độ phát triển cao hơn và những doanh nghiệp mới, quy mô nhỏ có thể
nhanh chóng trở thành những doanh nghiệp lớn.
Tham
gia các Hiệp định này, Việt Nam còn có thêm cơ hội nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ
tăng quy mô, tạo điều kiện hình thành những doanh nghiệp lớn đồng thời với xu
thế cá thể hóa doanh nghiệp. Đây cũng là cơ hội để nuôi dưỡng tinh thần đổi mới,
sáng tạo, khuyến khích phong trào khởi nghiệp của mọi người dân và nâng tầm
trình độ phát triển của nền kinh tế.
Toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp chúng ta hãy nêu cao niềm tự
hào dân tộc, chung sức đồng lòng, chủ động khai thác và phát huy tốt nhất cơ hội
thuận lợi, nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức trong hội nhập, tăng cường sức mạnh
tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, tiến cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu
như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./.
Nguyễn Tấn
Dũng
Thủ tướng
Chính phủ
Theo Cổng
thông tin điện tử Chính phủ
17,385