
Trước tiên phải kể đến sự mâu thuẫn và chồng chéo giữa Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là hai đạo
luật luôn đi đôi với nhau để điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp.
Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp là việc thành lập,
tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp; còn phạm vi điều chỉnh của Luật
Đầu tư là hoạt động đầu tư nhằm thực hiện mục đích kinh doanh. Phạm vi điều chỉnh
của hai luật này về nguyên tắc hoàn toàn tách bạch nhau, nhưng khi đi vào chi
tiết lại chồng chéo nhau.
Liên quan đến vấn đề hoạt động của doanh nghiệp, lẽ ra Luật
Đầu tư chỉ cần điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận đầu tư nhằm xác nhận những
ưu đãi mà dự án được hưởng, nhưng trên thực tế, Luật Đầu tư lại điều chỉnh cả
việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp bằng quy định: Giấy
chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 50 Luật
Đầu tư).
Như vậy, Luật Đầu tư đã điều chỉnh cả việc thành lập doanh
nghiệp, lấn vào sân Luật Doanh nghiệp, gây nên những vướng mắc khó giải quyết.
Ví dụ, một doanh nghiệp có giấy chứng nhận đầu tư đồng thời
là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có quyền thay đổi đăng ký kinh doanh tại
cơ quan đăng ký kinh doanh không? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, bởi theo cách
nhìn của Luật Doanh nghiệp, thì những doanh nghiệp trên chưa được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Rõ ràng, việc không tách bạch vấn đề thẩm quyền đăng ký kinh
doanh của hai luật này đã gây ra khó khăn cho doanh nghiệp.
Mặt khác, Luật Đầu tư còn phân biệt đối xử giữa
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu
tư trong nước phải đăng ký dự án đầu tư theo Luật Đầu
tư và thành lập tổ chức kinh tế theo Luật Doanh nghiệp; còn
nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần có giấy chứng nhận đầu
tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, sau khi nhận được giấy chứng nhận đầu tư,
nhà đầu tư cũng không vì thế mà có thể cắt bỏ được
các giấy phép khác như giấy phép xây dựng, giấy phép của cơ quan quản
lý đất đai, giấy phép của cơ quan quản lý môi trường và các giấy
phép khác liên quan đến hoạt động của dự án đầu tư đó. Giấy
chứng nhận đầu tư không thay thế được các loại giấy phép trên.
Vậy, doanh nghiệp cần giấy chứng nhận đầu tư để
làm gì? Bởi theo nguyên tắc, doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận đầu
tư là đã đủ điều kiện để đầu tư (các điều kiện
về dự án đầu tư đó đều đã hợp pháp), thì tại sao
lại buộc nhà đầu tư phải xin các loại giấy phép khác nữa?
Không những thế, có rất nhiều luật đang tiếm
quyền đăng ký kinh doanh của các chủ thể có thẩm quyền được
quy định trong Luật Doanh nghiệp bằng cách gắn giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh vào một giấy phép hoạt động.
Ngoài Luật Đầu tư ra thì còn có Luật
Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán. Ví dụ, Điều 65 Luật Kinh doanh
bảo hiểm quy định: Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời
là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Còn theo Khoản 2 Điều 59
Luật Chứng khoán, thì “Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép
thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ. Giấy phép này đồng thời là giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh”.
Các luật trên đã lợi dụng khoản 2 Điều 3 của Luật Doanh
nghiệp để “gặm nhấm” quyền đăng ký kinh doanh của các chủ thể
có thẩm quyền được Luật Doanh nghiệp quy định. Các luật chỉ cần
thêm hai từ “đồng thời” là coi như hoàn thành việc vô hiệu
lực từng phần Luật Doanh nghiệp để giành lấy quyền đăng ký kinh
doanh cho cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực mà các luật đó điều
chỉnh.
Trong khi nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan
này chỉ nên dừng lại ở việc cấp giấy phép hoạt động cho các doanh
nghiệp, còn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là của
cơ quan đăng ký kinh doanh, phục vụ lợi ích chung cho nhà đầu
tư. Hệ quả tất yếu của việc làm trên là sự rối loạn, không thống
nhất trong việc quản lý doanh nghiệp ở tầm vĩ mô.
Để khắc phục sự chồng chéo giữa các quy định của Luật Doanh
nghiệp và pháp luật chuyên ngành nhằm đảm bảo quyền tự do thành lập doanh nghiệp, cần
thống nhất việc quản lý nhà nước về doanh nghiệp, để cho việc quản lý doanh
nghiệp phù hợp với thực tế hiện nay.
Cụ thể, phải trả lại thẩm quyền đăng ký kinh doanh cho chủ
thể có thẩm quyền được quy định theo Luật Doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh
doanh phải là cơ quan duy nhất có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho doanh nghiệp. Các cơ quan khác chỉ có chức năng kiểm soát điều kiện
hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực mình phụ trách.
Cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện
áp dụng thống nhất về đăng ký kinh doanh đối với tất cả các ngành nghề, không để
tình trạng các luật chuyên ngành lấn sân Luật Doanh nghiệp, tạo sự chồng chéo
trong việc quản lý doanh nghiệp.
Đồng thời, xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan đăng ký kinh
doanh, thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh từ Trung ương đến cấp
tỉnh, huyện.
Coi việc cấp giấy chứng nhận đầu tư, cấp giấy phép hoạt động
là những hoạt động độc lập với việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Bởi,
việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là nhằm xác lập tư cách pháp nhân
cho doanh nghiệp. Nó hoàn toàn khác với việc cho phép doanh nghiệp hoạt động
trong một ngành nghề, lĩnh vực nào đó.
Thực hiện thống nhất nguyên tắc: đã hoạt động kinh doanh thì
trước tiên phải đăng ký kinh doanh để xác lập tư cách pháp nhân của chủ thể
kinh doanh, sau đó cấp giấy phép hoạt động, cấp giấy chứng nhận đầu tư ngành
nghề gì thì cấp.
Luật sư Hà Thu
Hoài
Hội Luật gia Việt
Nam
Theo chinhphu.vn
8,704
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN