Sau 7 tháng thụ lý đơn xin hủy
phán quyết từ phía Tổng công ty Hàng hải (Vinalines), Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội vừa đưa ra quyết định không hủy phán quyết nói trên, đồng thời không cho
phép các bên tiếp tục khiếu nại, kháng cáo.

Mất 65 tỷ đồng là đòn giáng
mạnh vào Vinalines vốn đang gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh
Với quyết này, Vinalines buộc
phải thi hành phán quyết trước đó của Hội đồng trọng tài quốc tế Việt Nam
(VIAC) trong vụ tranh chấp với nhà thầu Hàn Quốc.
Trước đó, vào đầu năm
2014, VIAC ra phán quyết buộc Vinalines phải trả hơn 65 tỷ đồng (tương đương 3
triệu USD) cho công ty SK Engineering & Construction (SKE&C) của Hàn
Quốc - nhà thầu thi công gói thầu b1 - xây dựng bến cảng thuộc dự án đầu tư xây
dựng cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong (giai đoạn khởi động).
Cụ thể, đây là khoản tiền mà cơ quan trọng tài buộc Vinalines phải
thanh toán cho lô cọc thép 544 đoạn SPP mà SK E&C mang đến công trường
trước khi Dự án bị dừng đột ngột để điều chỉnh chủ trương đầu tư vào năm 2012.
VIAC cho rằng, với cơ sở hồ sơ do SK E&C đệ trình, việc
Vinalines đã không thực hiện đúng các điều khoản hợp đồng khi từ chối thanh
toán khối lượng cọc thép được nhập về Việt Nam và khi hạng mục đó đã có xác
nhận của tư vấn giám sát.
Trước đó, để triển khai Dự án Cảng Vân Phong, vào tháng 10/2009,
Vinalines và liên danh nhà thầu là SK E&C - Tổng công ty Xây dựng đường
thủy (Vinawaco) đã ký hợp đồng số 03/VP/2009/HĐ - HHVN thi công gói thầu số
6b1. Hợp đồng xây dựng cầu tàu này có giá trị gần 1.000 tỷ đồng và được khởi
công vào tháng 10/2009, dự kiến hoàn thành sau 20 tháng thi công.
Theo phán quyết của VIAC, ngay cả khi nhà thầu chưa hoàn thiện bộ
hồ sơ thanh toán, nhưng nếu tư vấn đã phát hành Chứng chỉ thanh toán tạm, thì
chủ đầu tư buộc phải thanh toán. “Thậm chí, ngay cả trong trường hợp tư vấn
không kiểm tra sự chính xác và tính phù hợp của Hồ sơ thanh toán mà vẫn thông
qua và trình lên Vinalines, thì chủ đầu tư vẫn phải phê duyệt và thanh toán,
rồi sẽ đi kiện tư vấn để đòi lại”, phía VIAC đưa ra quan điểm.
Ông Nguyễn Trường Sơn, Phó trưởng Ban Cảng biển (Vinalines),
nguyên Giám đốc Ban quản lý dự án Hàng hải phụ trách cảng Vân Phong khẳng định:
“Chúng tôi không thể nhắm mắt ký hồ sơ thanh toán chưa hoàn thành, có thể dẫn
tới sai phạm trong quản lý vốn, gây thất thoát tài sản của Nhà nước”.
Ông Sơn cho biết, trong quá trình VIAC thụ lý vụ việc, Vinalines đã
nộp đầy đủ tài liệu chứng minh, cũng như trình bày cụ thể tại các phiên xét xử,
nhưng VIAC vẫn ra phán quyết buộc Tổng công ty phải thanh toán ngay giá trị lô
cọc 544 đoạn SPP mà SK E&C tự mang đến công trường và tự tính giá, cũng như
các khoản lãi phát sinh với số tiền tổng cộng hơn 65 tỷ đồng, sau khi đã khấu
trừ trực tiếp khoản hơn 87 tỷ đồng tạm ứng trước đó cho nhà thầu này.
Vinalines cho rằng, VIAC ra phán quyết mà không căn cứ vào các quy
định Hợp đồng về nghiệm thu và thanh toán. Cụ thể, SK E&C không hề có giá
trị hoàn thành và kê khai thuế hàng tháng theo Điều 14.3 của Hợp đồng; không có
hồ sơ thanh toán theo Điều 14.17; không có hồ sơ sản xuất lô cọc ống thép;
không có biểu xác định giá lô cọc theo Điều 13.8.2/ĐKR Hợp đồng có xác nhận của
chủ đầu tư.
Đáng lưu ý là, SK E&C sử dụng một chứng cứ giả mạo là bản
photocopy một thư trao đổi công việc giữa tư vấn giám sát và Giám đốc Ban Quản
lý dự án để làm “Chứng chỉ thanh toán tạm” cung cấp cho VIAC xét xử. VIAC không
hề xác minh tài liệu quan trọng này với tư vấn giám sát và Giám đốc Ban Quản lý
dự án khi xét xử và ra phán quyết.
Bên cạnh đó, Vinalines cũng cho rằng, chính SK E&C mới là bên
vi phạm hợp đồng, khi nhà thầu này đã không thực hiện trách nhiệm thầu chính
theo các quy định trong hợp đồng đã ký cũng như theo pháp luật Việt Nam về thực
hiện dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước. Lô cọc ống thép nhà thầu này
đưa đến công trường là sai quy cách, không có hồ sơ sản xuất, không tuân thủ
hợp đồng về số lượng và giá cả. Bên cạnh đó, SK E&C không thực hiện quy
định nghiệm thu khối lượng, khai thuế hàng tháng và ký đề nghị thanh toán.
Tuy nhiên, Hội đồng xét đơn của Tòa đã phản bác lập luận này với
lý lo "Vinalines không đưa ra được chứng cứ để chứng minh".
Về nội dung Vinalines cho rằng phán quyết của VIAC dựa trên hồ sơ
có một chứng chỉ thanh toán tạm mà chủ đầu tư khẳng định là giải mạo vì họ chưa
hề phê duyệt, Tòa án nhận định: Việc Vinalines chưa phê duyệt không có nghĩa
đây là chứng cứ bị giả mạo. Ngoài ra, cơ quan này cũng dẫn chứng văn bản nói
trên đã được nhắc tới trong một biên bản họp giữa các bên, trong đó có chủ đầu
tư.
Một số nội dung kiến nghị khác của Vinalines như Hội đồng trọng
tài không triệu tập người có quyền và nghĩa vụ liên quan (là một doanh nghiệp
Việt Nam cùng tham gia trong liên danh nhà thầu với SK E&C) hay trọng tài
tuyên án hai lần cũng bị Tòa bác bỏ.
Theo cơ quan xét đơn, việc triệu tập là “quyền” chứ không phải
“nghĩa vụ” của Hội đồng trọng tài, chiếu theo Luật Trọng tài thương mại. Hơn
nữa, trong quá trình Tòa Hà Nội giải quyết vụ việc, Vinalines đã không xuất
trình được bất kỳ tài liệu nào chứng minh họ có yêu cầu triệu tập người làm
chứng. Trong khi đó, việc VIAC tuyên lần hai chỉ là để sửa chữa số liệu do nhầm
lẫn, và điều này, cũng được luật cho phép.
Từ những phân tích trên, Tòa án nhân dân TP Hà Nội khẳng định
không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết của VIAC mà Tổng công ty
Hàng hải đề nghị.
Theo công ước New York 1958 về thi hành các quyết định trọng tài
nước ngoài mà Hàn Quốc và Việt Nam đều là thành viên thì việc thi hành có thể
bị từ chối, đình chỉ trong trường hợp bên yêu cầu (ở đây là Vinalines) có bằng
chứng cho thấy phán quyết bị đình lại, tạm hoãn bởi tòa án của nước ra phán
quyết.
Điều này được hiểu là, trong thời gian Tòa án thụ lý đơn yêu cầu
hủy phán quyết của Vinalines thì doanh nghiệp được yêu cầu tạm ngưng thi
hành. Tuy nhiên, với việc Tòa chính thức ra quyết đinh bác bỏ yêu cầu nêu
trên thì đương nhiên yêu cầu ngừng thi hành phán quyết cũng hết hiệu lực, khi
đó, Vinalines có trách nhiệm thực hiện phán quyết của VIAC.
Trước đó, ngay sau khi có phán quyết của VIAC đầu năm 2014, phía
SK E&C đã yêu cầu các cơ quan Hàn Quốc bắt giữ hai tàu của Vinalines để gâp
sức ép buộc doanh nghiệp Việt Nam thi hành phán quyết. Đại diện Vinalines lúc
ấy cho rằng việc bắt giữ tàu là “vượt quá giới hạn”, thế nhưng ngay sau đó
doanh nghiệp này cũng phải bỏ ra số tiền trên 3 triệu USD mở tài khoản phong
tỏa nhằm giải phóng tàu.
Anh Minh
Theo Báo đầu tư
5,764
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN