
Hiện
tại, các chính sách thuế của Việt Nam vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện và theo
các chuyên gia nước ngoài, việc xóa bớt khoảng cách khác biệt với các quốc gia
khác là việc cần được tính đến một cách nghiêm túc.
Các con số “biết nói”
Một cuộc khảo sát của Hội Tư vấn thuế Việt Nam mới đây đã
được tiến hành tại 69 doanh nghiệp, trong đó Tp.HCM là 22 doanh nghiệp, Hà Nội
15 doanh nghiệp, Đồng Nai 23 doanh nghiệp và Bắc Ninh 9 doanh nghiệp.
Trong số này, có 17 doanh nghiệp tư nhân (24,64%), 31
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (44,93%), 11 doanh nghiệp là công ty
TNHH/công ty cổ phần có vốn nhà nước (15,94%), 1 doanh nghiệp nhà nước và 10
doanh nghiệp thuộc loại hình khác (14,45%).
Theo các doanh nghiệp, các vấn đề khó khăn nhất về chính
sách, thủ tục hành chính thuế thường gặp là việc luật thuế thay đổi thường
xuyên nên chưa cập nhật kịp; nội dung văn bản chưa thống nhất về từ ngữ dễ gây
hiểu nhầm. Một số chính sách giữa các văn bản còn chưa đồng nhất và văn bản sửa
đổi bổ sung nhiều .
Trong khi đó, với các quy định về ưu đãi thuế và xác định
đối tượng được hưởng ưu đãi, các doanh nghiệp cho rằng hiện có nhiều hồ sơ thủ
tục hành chính thuế nên việc giám sát khó khăn; cán bộ thuế gặp rủi ro nghề
nghiệp khi giải quyết hoàn thuế liên quan đến hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ
trốn, trong khi các vấn đề khác như các quy định về kê khai và nộp thay thuế
nhà thầu khó thực hiện và khai thuế qua mạng thường bị nghẽn vào thời điểm khai
thuế cũng là mối quan tâm của các doanh nghiệp.
Các con số “biết nói” về tình hình thực hiện chính sách
thuế hiện nay là rất đáng chú ý. Nhận xét về tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực
hiện của các văn bản pháp luật thuế hiện hành, có 62,71% số cán bộ và 88,89% số
doanh nghiệp đánh giá ở mức trung bình và thấp, 27% cán bộ thuế và hơn 11% số
doanh nghiệp có ý kiến đánh giá cao về tính minh bạch, rõ ràng của chính sách
thuế hiện hành.
Đáng chú ý là khi được yêu cầu chỉ ra các văn bản pháp luật
thuế cụ thể gây khó khăn trong việc thực hiện, cán bộ thuế và doanh nghiệp đều
nêu ví dụ về thuế thu nhập cá nhân, thuế đối với nhà thầu nước ngoài, quy định
về đối tương không chịu thuế của Luật Thuế giá trị gia tăng và các quy định về
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong khi đó, nhận xét về khả năng tiếp cận thông tin về
chính sách pháp luật thuế, 1% số cán bộ thuế và 16% số doanh nghiệp được hỏi
cho rằng có khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về các văn bản pháp luật
chính sách và quản lý thuế.
Các doanh nghiệp đều cho rằng cơ quan thuế cập nhật chính
sách thuế mới cho doanh nghiệp còn chậm; người kê khai thuế chưa được trang bị
kiến thức đầy đủ và kịp thời và việc tuyên truyền hỗ trợ của cơ quan thuế còn hạn
chế nên doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong thực thi.
Đánh giá về các quy định hiện hành của chính sách thuế và
cơ chế quản lý thuế nhằm ngăn ngừa, hạn chế gian lận thuế, đảm bảo bình đẳng
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, 18 đến 28% ý kiến cho rằng rất có hiệu quả,
16% ý kiến cho rằng hiệu quả chưa cao.
Để giải quyết các vấn đề này, nhóm khảo sát đã đề xuất
các giải pháp cụ thể về chính sách thuế, quản lý thuế để đảm bảo tính minh bạch,
rõ ràng, tăng cường hiệu quả- hiệu lực của công tác thuế đồng thời khuyến khích
đầu tư, phát triển, mở rộng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Cụ thể, nhóm đề xuất rằng cần thường xuyên tổ chức các lớp
tập huấn để cập nhật kiến thức về thuế; có chính sách xử lý rõ ràng khi doanh
nghiệp sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh, cập nhật kịp thời
các doanh nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh lên một trang web chung phục vụ trong cả
nước.
Bên cạnh đó, nhóm cũng đề xuất việc nên hợp nhất các nghị
định và thông tư, hiện nay chính sách thuế đã thay đổi nhưng một số quy định tại
các nghị định trước vẫn còn hiệu lực song hành với nghị định mới vậy các nhà
xây dựng chính sách nên gộp các văn bản vào một văn bản mới và bỏ hẳn cái cũ sẽ
dễ tra cứu hơn.
Xóa bớt khoảng cách
Trong khi đó, theo báo cáo "Kinh nghiệm quốc tế về
ưu đãi thuế nhằm khuyến khích đầu tư: So sánh với chính sách thuế hiện hành của
Việt Nam" do Action Aid thực hiện, đang có khoảng cách nhất định giữa
chính sách và thực thi chính sách thuế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Theo báo cáo này, có thể nói luật thuế của tất cả các nước
trên thế giới đều có các cơ chế ưu đãi. Trong đó, cơ chế ưu đãi có tính công bằng
và khách quan nhất là các cơ chế miễn, giảm, giải thoát nghĩa vụ thuế cho người
nộp thuế trong các trường hợp bất khả kháng như thiên tai, địch họa, tai nạn bất
ngờ...
Ngoài ra, các cơ chế ưu đãi thuế khác được xây dựng nhằm
thực hiện các mục tiêu, chủ trương, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ
nhất định nhằm khuyến khích phát triển kinh tế xã hội, thu hút đầu tư, phát triển
sản xuất kinh doanh vào các lĩnh vực, ngành nghề, các địa bàn cụ thể, hoặc tạo ảnh
hưởng tác động đến thực hiện một số chính sách xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể.
Như vậy, có thể thấy chính sách thuế cùng với các cơ chế
ưu đãi luôn có quá trình vận động, thay đổi một cách biện chứng với sự phát triển
của hoàn cảnh kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Sự khác biệt
về mức điều tiết trong từng sắc thuế cũng như các cơ chế ưu đãi thuế giữa các
quốc gia xảy ra khá phổ biến, tuy nhiên nó cũng có tác động tới việc thu hút
các nguồn đầu tư quốc tế cũng như góp phần vào năng lực cạnh tranh của hàng hóa
sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, qua so sánh cụ thể, các chuyên gia
của Action Aid đã phát hiện ra những khác biệt tương đối giữa Việt Nam và các
nước trong vấn đề xây dựng và áp dụng chính sách thuế.
Chẳng hạn, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, từ
1/1/2013, Thái Lan giảm thuế suất phổ thông từ 23% xuống mức 20%. Trong khi đó,
ở Việt Nam, trong giai đoạn các năm 1990 đến 2003 thuế suất (thông thường) thuế
thu nhập doanh nghiệp là 32%, từ 2004 đến 2008 thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp là 28%, từ 2009 đến 2013 là 25%, từ 01/01/2014 đến 31/12/2015 là 22%, và
từ 01/01/2016 thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%.
Có thể thấy sự "trễ pha" đáng kể trong việc giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam, một xu thế đã và đang được nhiều nước
áp dụng.
Đối với chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp,
thông thường một quốc gia có thể ban hành một chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp có lợi hơn so với các nước khác nhằm thu hút đầu tư. Trong khi các nước
phát triển phương Tây thường ít áp dụng chính sách ưu đãi thuế vì cho rằng ưu
đãi thuế gây méo mó và dễ dẫn đến lợi dụng, các nước đang phát triển trong đó
bao gồm hầu hết các nước châu Á và ASEAN sử dụng biện pháp ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp để thu hút đầu tư, khuyến khích một số ngành nghề, lĩnh vực đặc biệt
(công nghệ cao, công nghiệp tiên phong, đặc khu kinh tế…), trong đó có Việt
Nam.
Một ví dụ đáng chú ý nữa là ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ. Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước
cho thấy, các nước rất coi trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ. Để phát triển
công nghiệp hỗ trợ, nhiều nước sử dụng chính sách ưu đãi thuế nhằm thu hút vốn
FDI hướng vào công nghiệp hỗ trợ.
Chẳng hạn, Thái Lan có chính sách miễn giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp có thời hạn đối với ngành công nghiệp kỹ thuật, chế biến nông sản
và doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn. Malaysia có chính sách ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế tạo, các
ngành công nghiệp tiên phong, công nghiệp ô tô, công nghiệp điện tử. Singapore
có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thu hút FDI vào các ngành
công nghiệp hỗ trợ bao gồm cả lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, thương mại, vận tải
biển. Hàn Quốc thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm phát
triển công nghiệp hỗ trợ trong các lĩnh vực công nghiệp phụ tùng, công nghiệp vật
liệu mới.
Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam không có quy định cụ thể
về ưu đãi cho công nghiệp hỗ trợ như ví dụ của các nước trên. Các diễn biến gần
đây liên quan đến việc vận động thành lập quỹ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong ngành
này là một tín hiệu đáng chú ý trong bối cảnh hiện nay.
Đối với vấn đề ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng, chính
sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Malaysia có quy định về ưu đãi thuế đối với
doanh nghiệp mở rộng, hiện đại hóa hoặc tự động hóa hoạt động sản xuất kinh
doanh hiện tại. Tại Thái Lan, nước này áp dụng chính sách ưu đãi về thuế đối với
đầu tư, kể cả đầu tư mở rộng, theo đó, Cơ quan Quản lý Đầu tư Thái sẽ xét duyệt
đối với từng dự án đầu tư cụ thể, căn cứ vào các tiêu chí cụ thể. Singapore cũng
cho phép doanh nghiệp được hưởng mức thuế suất thấp hơn 5% (so với mức thuế suất
phổ thông 17%) trong thời gian 10 năm và có thể được gia hạn thêm 5 năm đối với
thu nhập từ đầu tư mở rộng, căn cứ vào các điều kiện như: tạo ra giá trị gia
tăng cao, mở rộng quy mô, mua sắm máy móc và thiết bị hiện đại.
Trong khi đó, ở Việt Nam, chính sách ưu đãi đối với đầu
tư mở động có quá trình biến động không bình thường. Từ 2004-2008, lợi nhuận
tăng thêm từ đầu tư mở rộng được hưởng ưu đãi giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp trong 2 năm, từ 2009-2013 đầu tư mở rộng không còn được hưởng ưu đãi.
Phải đến năm 2013, sau nhiều tranh luận trên các diễn đàn
khác nhau, Quốc hội mới thông qua luật thuế mới, theo đó từ 2014, được miễn thuế,
giảm thuế đối với phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mở rộng như một phần của lợi
nhuận từ kinh doanh (nếu doanh nghiệp đang trong thời gian được hưởng ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp), hoặc được miễn giảm riêng như một dự án đầu tư mới.
Hiện tại, các chính sách thuế của Việt Nam vẫn đang tiếp
tục được hoàn thiện và theo các chuyên gia nước ngoài, việc xóa bớt khoảng cách
khác biệt với các quốc gia khác là việc cần được tính đến một cách nghiêm túc,
trong bối cảnh Việt Nam đang càng ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
thế giới, thông qua việc đã và đang tham gia hàng loạt hiệp định thương mại
quan trọng trong thời gian gần đây.
Yến
Thanh
Theo
Vneconomy
6,055