Chỉ thị 01 được ban hành vào ngày 13.2.2012 đã cho thấy định
hướng tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chặt chẽ của ngân hàng
Nhà nước (NHNN).
Tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán được giới hạn
ở mức 14 – 16% và tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng khoảng 15 – 17%.
Mỗi nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) khác nhau được đưa ra một mức tăng trưởng
tín dụng khác nhau.
Việc phân chia tỷ lệ tăng trưởng tín dụng có thể có dụng ý
tạo tiền đề để các NHTM tìm đến sáp nhập vào nhau, tận dụng quy mô và lợi thế
để tiếp tục tăng trưởng và phát triển.
Cơ sở cho việc hạ lãi
suất
Việc chia nhóm tốc độ tăng trưởng tín dụng giúp cho NHNN có
thể thực hiện được hai mục tiêu:
Thứ nhất, tạo điều
kiện cho hệ thống NHTM tiếp tục cung cấp nguồn vốn, hỗ trợ cho tăng trưởng của
nền kinh tế. Những lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cho vay các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, cho vay xuất khẩu… sẽ được các NHTM chú trọng và phát triển hơn
nữa.
Các lĩnh vực khác không được khuyến khích tiếp tục chịu sự
giới hạn về tỷ lệ dưới 16% trên tổng dư nợ tín dụng. Nhờ vậy, nền kinh tế vẫn
có thể tiếp tục nhận được nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng để có thể tăng
trưởng được.
Thứ hai, hạn chế tình
trạng cạnh tranh huy động lãi suất bằng mọi giá. Những NHTM nhóm 3 được
tăng trưởng tín dụng thấp và nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng, sẽ không
cần phải chạy đua huy động vốn bằng mọi giá như trước để tài trợ cho tăng
trưởng tín dụng.
Điều này sẽ giúp cho cuộc đua huy động vốn để tài trợ cho
tín dụng chỉ nằm lại ở các NHTM nhóm 1 và nhóm 2.
Tuy nhiên, tình hình thanh khoản của các NHTM này hiện đang
khá tốt, nguồn vốn dồi dào nên không cần phải đẩy cao lãi suất huy động. Hiện
nay, lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm, thậm chí
1 tháng, chỉ ở mức dưới 12%. Đây là cơ sở tiền đề cho việc hạ lãi suất trong
thời gian tới.
Với các trường hợp NHTM yếu kém khác, sự tự nguyện bị sáp
nhập có lẽ chỉ đến khi họ thấy đấy là giải pháp duy nhất để tồn tại trong bối
cảnh chính sách tiền tệ tiếp tục bị thắt chặt.
Khó khăn các NHTM nhỏ
phải đối mặt
Mặc dù NHNN không công bố danh sách các ngân hàng trong từng
nhóm tăng trưởng tín dụng, nhưng thông tin này sẽ khó có thể giữ kín được, đặc
biệt là khi mùa đại hội cổ đông đang đến gần.
Định hướng tăng trưởng tín dụng thường được coi là thông tin
quan trọng nhất trong kế hoạch phát triển của một ngân hàng trong năm. Vì thế,
những NHTM nhóm 3 và nhóm 4, một khi lộ diện, sẽ phải đối mặt với dòng tiền gửi
bị biến động mạnh.
Mặc dù không chịu áp lực phải huy động vốn để tiếp tục tăng
trưởng tín dụng, nhưng những NHTM này vẫn tiếp tục chịu áp lực huy động để tài
trợ cho các khoản cho vay trước đó.
Nếu khách hàng có dấu hiệu rút tiền mạnh khỏi những NHTM này
để chuyển sang những NHTM nhóm 1 và nhóm 2 thì thanh khoản của các NHTM nhóm 3,
nhóm 4 khó khăn. Khi đó, nếu không có sự hỗ trợ từ phía NHNN thì các NHTM này
buộc phải cạnh tranh huy động vốn từ thị trường dân cư và doanh nghiệp. Lãi
suất khi đó sẽ khó hạ được như mục tiêu của NHNN.
Không chỉ có vậy, các NHTM này sẽ chịu áp lực lớn từ việc
các cổ đông có thể rút vốn hoặc không tiếp tục mua thêm cổ phần khi các NHTM
này phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Điều này sẽ khiến cho việc đáp ứng các
tỷ lệ an toàn vốn gặp khó khăn.
Khó tăng vốn cũng đồng nghĩa với việc NHTM khó có thể mở
rộng mạng lưới hoạt động của mình, mở rộng quy mô tài sản… và do vậy sẽ khó có
thể tiếp tục cạnh tranh so với các NHTM nhóm trên. Khi đó, hoạt động kinh doanh
sẽ càng khó khăn hơn. Vấn đề xử lý nợ và đảm bảo thanh khoản vẫn là nỗi lo
thường trực của các NHTM này.
Đẩy nhanh quá trình
tái cơ cấu
Mặc dù có thể gặp nhiều khó khăn nhưng đây cũng chính là
thời điểm quan trọng để các NHTM thực hiện tái cơ cấu lại hoạt động của mình.
Đối với các NHTM nhóm 3 và nhóm 4, việc tái cơ cấu hoạt động sẽ giúp nâng cao
chất lượng hoạt động cho chính những NHTM này.
Nếu không thể tự đứng vững, một con đường khác để thực hiện
tái cơ cấu là tìm kiếm các đối tác, các NHTM khác lớn hơn để sáp nhập vào, tạo
thành một ngân hàng mới có chất lượng tốt hơn.
Lợi thế từ việc phát triển nhanh quy mô, lành mạnh hoá hơn
tình hình tài chính sẽ giúp các NHTM này sớm được NHNN nâng trần tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng. Còn đối với các NHTM nhóm 1 và nhóm 2, nếu hoạt động
không tốt thì chưa chắc hạn mức tăng trưởng tín dụng đã có thể được duy trì như
mức ban đầu.
Điều này là hoàn toàn có cơ sở bởi trong chỉ thị 01, NHNN đã
để ngỏ một phần về cơ hội có thể điều chỉnh tăng trưởng tín dụng đối với các
ngân hàng này. Điều này thể hiện thông qua định hướng tăng trưởng tín dụng năm
nay không giới hạn ở một con số cụ thể mà sẽ dao động trong khoảng từ 15 – 17%,
tức là có thể thay đổi một cách linh hoạt. Tiếp đến là việc “sau sáu tháng thực
hiện, NHNN sẽ xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các tổ
chức tín dụng phù hợp với diễn biến tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng và
đảm bảo đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ”.
Do vậy, tác động của chỉ thị 01 có thể sẽ là thúc đẩy nhanh
quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng yếu muốn tiếp tục tồn
tại sẽ buộc phải tìm đến các ngân hàng mạnh hơn để tiến hành các thương vụ mua
lại và sáp nhập. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng mua lại và ngân hàng được mua
lại đều cùng có lợi.
Đối với ngân hàng mua lại, quy mô tiếp tục được mở rộng, tốc
độ tăng trưởng tín dụng tuy không thay đổi nhưng sẽ tính trên quy mô mới lớn hơn,
tạo điều kiện cho các NHTM này phát triển nhanh hơn. Đối với ngân hàng bị mua
lại, tình hình tài chính sẽ được đảm bảo tốt hơn nhờ ngân hàng mua lại, tốc độ
tăng trưởng tín dụng sẽ lớn hơn khi các ngân hàng trên cùng nhau tạo thành một
ngân hàng thống nhất.
Việc thúc đẩy nhanh hơn quá trình sáp nhập giữa các ngân
hàng có lẽ là một mong muốn của NHNN trong lộ trình tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng. Hồi đầu năm, thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình phát biểu trong một cuộc họp
báo là sẽ tiến hành sáp nhập thêm 5 – 8 ngân hàng nữa trong quý 1/2012.
Tuy nhiên, kế hoạch này khó có thể hoàn thành nếu các ngân
hàng yếu kém không tự nguyện chấp nhận bị sáp nhập vào ngân hàng khác. Việc sáp
nhập ba ngân hàng cổ phần Sài Gòn, Tín Nghĩa và Đệ Nhất hồi cuối năm 2011 thành
công dễ dàng chủ yếu là ba ngân hàng này có mẫu số chung dẫn đến sự “tự
nguyện”.
Với các trường hợp NHTM yếu kém khác, sự tự nguyện bị sáp
nhập có lẽ chỉ đến khi họ thấy đấy là giải pháp duy nhất để tồn tại trong bối
cảnh chính sách tiền tệ tiếp tục bị thắt chặt.
Theo Nguyên Minh Cường
SGTT