Tan nát
Vào đầu năm 2010, khi viễn cảnh do mình vẽ ra bắt đầu có vẻ
giống ảo tưởng hơn, Ruyak đã thú nhận với các partner của mình rằng Howrey chỉ
thu được 75% ngân sách dự kiến trong năm 2009.
Các partner chuyên về sở hữu trí tuệ ở Châu Âu, những người
có mối ràng buộc lỏng lẻo với hãng, phàn nàn rằng họ đã bị che dấu thông tin. Hầu
hết trong số họ - khoảng 25 luật sư - nhanh chóng kiếm cớ chuồn.
“Khi các partner ra đi, tiền cũng ra đi nốt - có thể dưới dạng
doanh thu sụt giảm, mất khách hàng, hay hoàn vốn,” Diamond nói. Trong thời gian
còn lại của năm 2010, thêm khoảng 40 partner nữa rời bỏ hãng. “Howrey lúc đó
đang trên đường dẫn đến sụp đổ về mặt tài chính,” Diamond nói.
Giống như nhiều hãng có tư duy bành chướng khác, Howrey “chủ
yếu dựa vào vốn vay” để làm động lực tăng trưởng, Diamond lưu ý. “Trong khi hầu
hết các hãng đều giảm đòn bẩy tài chính trong năm 2008 và 2009, Howrey đã không
áp dụng các biện pháp cắt giảm chi phí trọng yếu.”
Vào mùa xuân năm 2009, Howrey bắt đầu bước vào chu kỳ vỡ nợ
và tái cấu trúc khoản nợ của hãng tại Citibank. Diamond đã so sánh điều này với
việc “sắp lại những chiếc ghế trên boong con tàu Titanic sắp chìm.”
Tiền từ những vụ thắng kiện ngẫu nhiên ngày nào đã hết, còn
lại là Howrey và mớ khó khăn trước một loạt các vụ kiện ngẫu nhiên có rủi ro
cao, không có dấu hiệu thu được tiền. “Cho tới ngày 31/5/2010, hãng đã có một
'khoản đầu tư trả chậm' trên 80.7 triệu USD từ các vụ kiện ngẫu nhiên, và tạm
thời không thu được khoản lợi nhuận đáng kể nào,” người ủy thác tư pháp nhận
xét.
Các dịch vụ hỗ trợ của Howrey trở thành gánh nặng khi các đối
thủ của hãng loại bỏ chức năng này và đi thuê ngoài với mức giá rẻ hơn.
Vào tháng 1/2011, tình hình tài chính tệ hại của hãng trở
nên rõ ràng, Ruyak đã thừa nhận rằng Howrey lại một lần nữa không đạt được mục
tiêu ngân sách của mình, “với lợi nhuận trên partner sụt giảm xuống dưới
550,000 USD – tức là thấp hơn hàng trăm nghìn so với năm 2010 hay 2009, và thấp
hơn một nửa của năm 2008,” theo thống kê của Diamond.
Các partner còn lại “bắt đầu lũ lượt rời bỏ hãng, và Howrey
nhanh chóng lún sâu vào kết cục giải thể.”
“Đáng buồn,” Taladay nói, “là ở chỗ một thương hiệu vĩ đại
đã bị mất, và một nhóm những luật sư tài giỏi, những người muốn làm việc cùng
nhau, phải tan rã.”
Chỉ mình Howrey sụp đổ, hay sự ra đi của cả một mô hình
kinh doanh
Trong khi đó, các khách hàng doanh nghiệp dường như cảm thấy
được an ủi bởi sự xáo trộn trong nhóm các công ty luật lớn. Từ năm 2007 tới
2009, các hãng với trên 500 luật sư đã chứng kiến sự sụt giảm hơn 5% số giờ
tính phí của mình. Số lượng các cộng sự của họ giảm đi tới hàng nghìn.
Trong khi sự sụt giảm số giờ tính phí đã bớt đi nhờ quá
trình phục hồi nền kinh tế, các công ty ngày càng đòi hỏi dịch vụ với mức phí tốt
hơn, Adam Epstein, một nhà tư vấn tại San Francisco chuyên về các doanh nghiệp
cỡ nhỏ, nói.
“Thương hiệu hãng luật không còn có nhiều ý nghĩa nữa,” ông
giải thích. “Tôi nói với các khách hàng rằng họ cần tìm kiếm những tay luật sư
hiểu rõ cơ chế và giải quyết được các vướng mắc của họ, cho dù tay đó có hành
nghề ở đâu đi chăng nữa.” Luôn có khả năng rằng tay luật sư đó vừa mới chuyển
chỗ làm.
Bản thân Epstein, từng là cộng sự tại Brobeck Phleger - hãng
này đã phá sản vào năm 2003, cũng khuyên các công ty phải hoài nghi về bất kỳ
partner của hãng luật lớn nào đề nghị mức phí hơn 1,000 USD/giờ cho các giao dịch
thông thường.
Kiểu gì cũng có những partner giỏi tương đương thuộc một
hãng nhỏ hơn hoặc tại văn phòng chi nhánh của một hãng lớn ở khu vực ngoại
thành sẵn lòng làm công việc đó với một mức phí thấp hơn, điều này có thể tiết
kiệm cho các khách hàng của họ hàng chục nghìn đôla.
“Giới luật đã thay đổi rất nhiều trong 20 năm qua,” Epstein
nói. “Thậm chí tôi thấy nó sẽ còn thay đổi mãnh liệt hơn trong từ năm tới bảy
năm tới khi mà biến động vẫn còn.”
Nhưng có một số thứ sẽ không thay đổi. Đối với các vụ sáp nhập
rủi ro cao, một số CEO sẽ vẫn chọn Cravath hoặc Wachtell theo phản xạ. Các hãng
này và một số ít đối thủ ở New York (Sullivan & Cromwell; Davis Polk &
Wardwell; Simpson Thacher & Bartlett) rất có hứng thú với các vụ kháng kiện
để bảo vệ thân chủ.
Giới quản lý có thể trần tình trước một hội đồng quản trị
đang giận dữ rằng: “Ừ thì vụ làm ăn đổ bể, nhưng chúng tôi đã thuê Cravath rồi
đấy thôi.”
Đối với hầu hết các hãng khác trong nhóm các công ty luật lớn,
tương lai còn rất hỗn độn. Áp lực về phí khách hàng sẽ đi kèm với việc xử lý
chi phí đội lên từ giai đoạn trước suy thoái.
Các luật sư trẻ sẽ phải cạnh nhanh nhiều hơn để tạo dựng chỗ
đứng. Để bảo vệ túi tiền cá nhân của mình, các hãng đang thúc đẩy sự hình thành
quan hệ đối tác trong bối cảnh nguồn cung lao động mới đang dư thừa.
Cục Thống kê Lao động ước tính rằng trong suốt thập kỷ kết
thúc vào năm 2020, nền kinh tế Mỹ sẽ tạo ra thêm được 73,600 vị trí việc làm
cho các luật sư. Trong khi đó, mỗi năm các trường luật sẽ bơm thêm 25,000 luật
sư mới tốt nghiệp, tức là thừa tới 176,400 người có bằng luật sư J.D.s mà không
nơi nào thực sự cần tới.
Những dữ kiện trên càng làm u ám thêm bức tranh nghề nghiệp ảm
đạm của các luật sư mới ra trường, William Henderson, giáo sư tại Trường đại học
Indiana, dự đoán.
Trong một nghiên cứu mang tên “From Big Law to Lean Law” do
ông trình bày vào tháng 11 năm ngoái tại Trường Đại học George Mason, Henderson
đã cảnh báo rằng tỷ lệ số luật sư trẻ mắc kẹt tại các vị trí không thuộc nhóm
partner hoặc làm nhân viên xử lý tài liệu cho các hãng thuê ngoài sẽ ngày càng
tăng.
Trong khi đó, hầu hết các hãng luật lớn “có vẻ như được quản
lý vì vị lợi ngắn hạn của các partner chính yếu.” Tuy nhiên, ánh hào quang lịm
dần của Howrey vẫn giúp một trong số các cựu partner của hãng được soi rọi.
Các sếp vẫn hạ cánh an toàn
Khi Ruyak cập bến Winston & Strawn vào tháng 9/2011,
thông báo tuyển dụng có nói rằng trong thời gian làm việc tại Howrey, “Ruyak đã
gây dựng tiếng tăm của mình ở tầm quốc gia nhờ sự xuất sắc trong vai trò luật sư
và gây được sự chú ý sát sao nhờ các đột phá trong kỹ thuật tranh tụng và xét xử.”
Thông báo không nhắc tới việc Ruyak tiếp nhận vai trò quản lý tại Winston &
Strawn.
Taladay đã cùng một nhóm các cựu luật sư chống độc quyền của
Howrey chuyển tới Baker Botts, một hãng luật gồm 725 luật sư khởi nguồn từ
Texas. Mới đây ông đã được chọn làm trưởng văn phòng gồm 135 luật sư của Baker
Botts tại Washington.
Ness đã cùng các luật sư tranh tụng trong lĩnh vực xây dựng
của mình chuyển tới trụ sở tại Washington của Jones Day, một hãng luật thành lập
tại Cleverland và hiện đang thuê 2,400 luật sư trên toàn thế giới.
Sau một số cuộc chạm trán nhỏ lẻ trước tòa, các vấn đề của
Howrey liên quan tới Chương 11 trong Luật Phá sản của Mỹ được kỳ vọng dàn xếp ổn
thỏa ngoài tòa án. Ruyak và một số cựu đồng nghiệp đã ký một giao kèo tạm thời
với người ủy thác tư pháp để giải quyết sớm vụ kiện chống lại họ, ít nhất là tới
ngày 30/9 trong khi họ bàn bạc để đi đến một thỏa hiệp.
Ben Davidson, vị luật sư từng tốt nghiệp khóa học luật vào
ban đêm tại Đại học George Washington, người từng bị sốc trước sự sụp đổ của
Howrey, cũng đã tự đứng được trên đôi chân của mình.
Thay vì gia nhập một hãng luật lớn khác, Davidson đã tự mở
hãng luật riêng ở Los Angeles. Hãng Davidson Law Group, với hai luật sư chuyên
xử lý các vụ kiện về bản quyền, đã giúp chính những người sáng lập hãng có cơ hội
được tranh tụng trước tòa thường xuyên hơn hồi còn ở Howrey.
“Giờ đây, các thẩm phán ở Los Angeles đã biết đến tôi và họ
tôn trọng tên tuổi và uy tín của tôi mỗi khi tôi xuất hiện trước họ,” Davidson
nói. Anh nhận các vụ kiện mà mình muốn và không cần nhờ bất kỳ ai khác tính
toán số giờ công của mình.
Gần như vào tất cả các buổi sáng trước khi tới văn phòng,
anh chạy bộ trên bãi biển. “Các hãng lớn chú trọng mục tiêu kinh doanh nhiều
hơn,” Davidson nói. “Cá nhân tôi thì thích làm một luật sư hơn.”
Ngọc Anh
Theo Trí Thức Trẻ/Businessweek
4,166