“Ở Howrey chúng tôi không có truyền thống hội ý hay hỏi ý kiến
lẫn nhau,” Zeughauser nhận xét
Bong bóng luật sư
Trước đây, một công ty luật thuê tới hàng trăm luật sư cùng
lúc sẽ được coi là công ty lớn. Nhưng kể từ những năm đầu thập niên 90, một vài
công ty tuyển dụng tới 1000 luật sư hoặc thậm chí nhiều hơn.
Công ty lớn nhất, DLA Piper, có tới hơn 4000 luật sư với 77 văn phòng tại 30 quốc
gia. Hai mươi mốt công ty khác có hơn 1000 luật sư, tất cả các con số này đều
được lưu trữ bởi Tạp chí American
Lawyer. "Theo Harper: “Trong 20 năm qua, việc đưa một công ty lọt vào
danh sách AmLaw 100 được coi như một tấm huy chương danh dự cho những lãnh đạo có thể làm được điều đó.”
Đây là một mục tiêu kỳ lạ bởi vì, theo Altman Weil, một tư vấn
quản lý hàng đầu chuyên về các công ty luật, "không có tính kinh tế theo
quy mô trong hành nghề luật sư tư nhân."
Đúng đấy, bạn không đọc sai đâu: "Chi tiêu của các công
ty luật lớn trên mỗi luật sư luôn nhiều hơn so với các công ty nhỏ xét về các yếu
tố nhân sự, chỗ ở, thiết bị, thăng tiến, sai sót nghề nghiệp, và các chi phí
khác như bảo hiểm, văn phòng phẩm...”
Những công
ty có khả năng duy trì bền vững mức lợi nhuận cao nhất cho các partner góp vốn,
và thường giữ được chân họ trong nhiều thập kỷ, không phải là những công ty lớn
nhất.
Wachtell, Lipton, Rosen & Katz và Cravath, Swaine &
Moore, các con át chủ bài trong mua lại và sáp nhập, liên tục xuất hiện trong
top 5 công ty có lợi nhuận cao nhất của AmLaw. Ngay cả khi phải chịu mức chi
phí vận hành đắt đỏ ở New York, 79 partner góp vốn của Wachtell vẫn hưởng trung
bình gần 5 triệu USD mỗi người trong năm 2012, còn các partner góp vốn của
Cravath mang về nhà trung bình 3.4 triệu USD mỗi người.
“Những hãng siêu lợi nhuận lại khá khiêm tốn về quy mô,”
Harper nói. “Những hãng theo đuổi tăng trưởng bằng cách thuê những luật sư tài
năng với mức giá cao ngất và sáp nhập thật nhiều là những hãng mà anh thấy đang
phá sản hoặc có nguy cơ phá sản.”
Các kỹ năng để một người trở thành một luật sư thành công –
như sự nhạy bén trong lời nói, sự nhanh trí trong khi tung hứng khách hàng,
tính cạnh tranh biết nhắm tới điểm “yết hầu“ - không hẳn biến anh thành một
lãnh đạo có tầm nhìn xa. Đó là nhận xét của Levitsky, một luật sư chống độc quyền
ở New York, ông đã làm việc tại Dewey & LeBoeuf tới tận khi hãng này phá sản
và hiện ông đang làm việc tại Duane Morris.
Thật không may, một số luật sư thành công lại không hiểu được
điều này, ông nói thêm: “Nếu để họ nắm quyền, họ có thể khiến một hãng đang đi
đúng đường chệch hướng và đâm thẳng vào vũng lầy.”
Howrey sa lầy
Vào cuối những năm 1990, John Taladay thành lập hãng luật chống
độc quyền ở Washington có tên là Collier, Shannon, Rill & Scott. Howrey đã
mua lại hầu như toàn bộ hãng luật Collier vào năm 2001. Taladay cho rằng đây là
một việc làm hợp lý: “Howrey có một thương hiệu chống độc quyền mạnh, và chúng
tôi đang kết hợp những điểm mạnh.”
Việc Howrey mở rộng sang Châu Âu sau đó khiến Taladay lo lắng
hơn. Hãng tự động chấp nhận “rất nhiều chi phí cố định và tiền thuê nhân sự đắt
đỏ từ các hãng của Châu Âu mà chúng tôi đang thôn tính,” Taladay nhớ lại.
Mặc dù văn phòng tại Brussels tỏ ra có triển vọng trong lĩnh
vực chống độc quyền và bảo hộ sở hữu trí tuệ, nhưng theo Taladay, “vào năm
2008, thực sự chúng tôi đang phá hỏng triển vọng đó.”
Khi Ruyak vẽ ra triển vọng tăng trưởng của Howrey, ngồi kế
bên ông là Peter Zeughauser - cựu cố vấn cấp cao, người sở hữu một hãng luật tại
Newport Beach, California. Ruyak “đang tiến hành rất nhiều đổi mới, có lẽ là
hơi quá nhiều thứ cùng một lúc,” Zeughauser nói.
“Ở Howrey chúng tôi không có truyền thống hội ý hay hỏi ý kiến
nhau,” Zeughauser nhận xét, vì vậy nên chẳng mấy ai phản đối lại cách làm của
Ruyak cả. Điều đó càng trở nên rõ rệt hơn khi ban điều hành của hãng mất đi hai
người chủ chốt qua đời sớm vì bệnh ung thư vào năm 2007 và 2008.
Theo các cựu luật sư của Howrey, trải qua thời gian, phong
cách cá nhân của Ruyak bắt đầu khiến người khác phải cau mày.
Khi hãng suy thoái vào năm 2008, ông đưa ra một cuốn sách nhỏ
với tiêu đề “Tảng Băng Của Chúng Ta Đang Tan Chảy” nói về một gia đình chim
cánh cụt đang đối mặt với một mối nguy. Cho dù nghĩa đen của câu truyện ngụ
ngôn kiểu Aesop này có là gì đi chăng nữa thì Ruyak vẫn tiếp tục khiến tảng
băng của Howrey trở nên chật trội hơn.
Chết vì M&A
Vào tháng 11/2008, Ruyak đã tự quyết định thuê 40 luật sư
chuyên về các vụ kiện trong ngành xây dựng từ hãng luật phá sản Thelen, bản
thân hãng này là nạn nhân của vụ sáp nhập ngầm với một hãng ở New York.
“Tôi sẽ gọi ông ta là một người bán hàng tồi tệ,” Ness, một
trong số những người đến từ Thelen, nói. “Hóa ra là chúng tôi đã gia nhập
Howrey, có lẽ, vào cái ngày tốt nhất mà hãng này từng có, và kể từ đó thì nó bắt
đầu xuống dốc.”
Ness gọi Ruyak là một “Người Ngoài Cuộc vĩ đại” thiếu cái gọi
là “Người Trong Cuộc thực sự biết cách điều hành một doanh nghiệp.” Theo
Diamond, người ủy thác tư pháp hiện thời của Howrey, vào năm 2008, khi mà nền
kinh tế thế giới bước vào đợt suy thoái nghiêm trọng, nhu cầu đối với dịch vụ
pháp lý của Howrey, tính theo số giờ tính phí, bắt đầu có dấu hiệu xấu đi.
Bước phát triển đáng ngại này vẫn kéo dài trong năm 2009 và
2010, song từng được ngụy trang bằng kết quả thắng kiện trong rất nhiều vụ kiện
quan trọng mà hãng đã tiếp nhận với một mức phí tạm thời.
“Từ năm 2008 tới tận 2011,” Diamond nói, “Howrey đã tăng vốn
vay từ Citibank trong một nỗ lực nhằm trang trải chi phí mở rộng liên tục của
mình và để “lấp đầy” các lỗ hổng tài chính do doanh thu theo giờ và số tiền thu
về đang giảm dần của hãng.”
Số giờ mà họ tính phí tăng lên song hãng lại không thu đủ tiền
thanh toán từ các khách hàng doanh nghiệp đang gặp khó khăn. “Trong nội bộ,”
theo Diamond, “các partner của Howrey nói rằng khoản phải thu là các khoản nợ xấu
“bị thổi phồng” và không thể thu được, hay chỉ đơn thuần là 'rác rưởi.' ”
Trong khi đó, Howrey đã nhận thấy xung đột giữa các khách
hàng lâu năm ở Mỹ và các khách hàng ở Châu Âu nơi hãng đặt các văn phòng chi
nhánh mới với hi vọng lôi kéo họ. “Ai đó đã không cần mẫn tới mức hợp lý,” Ness
nói, “thật mỉa mai bởi đó là điều mà những tay luật sư đáng lẽ phải làm để kiếm
sống.”
Khi tư tưởng thị trường tự do đảo chiều và việc thi hành luật
chống độc quyền bị dừng lại trong thập niên 80, các partner của Howrey đã “tìm
nơi trú ẩn” vì lợi ích của hãng. Nhưng kể từ đó, tinh thần cống hiến cho tổ chức
đã bị xói mòn dần trong giới Luật Lớn.
“Các partner có xu hướng tìm kiếm lợi ích cá nhân và sẵn
sàng rời bỏ nếu thấy dấu hiệu rắc rối,” cố vấn Zeughauser nhận xét. Thêm vào
đó, các nhà tư vấn bên ngoài và vây cánh của họ tại các công ty săn đầu người vẫn
tiếp tục xoáy vào các hãng luật, hướng tới các vụ sáp nhập và giới thiệu nhân sự
thuê ngoài giá cao.
“Việc duy trì 'văn hóa' của tổ chức càng trở nên khó khăn
hơn trong bối cảnh này,” Zeughauser thừa nhận. “Cạnh tranh ngày càng gay gắt
hơn.”
Kỳ sau: Chỉ mình Howrey sụp đổ, hay sự ra đi của cả
một mô hình kinh doanh
Ngọc Anh
Theo Trí Thức Trẻ/Businessweek
4,848