>> Tiền lương được quan tâm đặc biệt
Theo Tờ trình của Chính phủ do Bộ
trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền đọc tại
phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ luật Lao động (sửa đổi) áp dụng
cho 3 nhóm đối tượng: người lao động Việt Nam (bao gồm người làm việc
theo theo hợp đồng lao động; người học nghề, tập nghề, người giúp việc
gia đình và một số loại lao động khác); người sử dụng lao động; người
nước ngoài làm việc cho các tổ chức và cá nhân tại Việt Nam (trừ trường
hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác).
 |
Công nhân ngành dệt may thường phải tăng ca để hoàn thành đơn hàng đúng hạn. Ảnh: Cao Thăng |
Bà Phạm Thị Hải Chuyền cũng
đã nhấn mạnh một số vấn đề có ý kiến khác nhau cần xin ý kiến Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về thỏa ước lao động tập thể ngành; về giờ làm thêm;
thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ; bình đẳng giới và tuổi nghỉ
hưu; giải quyết tranh chấp lao động.
Về giờ làm thêm, dự thảo quy định
theo hướng người sử dụng lao động có quyền huy động người lao động làm
thêm giờ khi đáp ứng đủ một số điều kiện, nhưng số giờ làm thêm tối đa
không quá 50% số giờ làm việc chính thức trong một ngày và không quá 30
giờ trong một tháng. Sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong
tháng, người lao động phải được bố trí nghỉ bù.
Dung hòa giữa 2 loại ý kiến về
thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ, Chính phủ đề nghị chọn phương
án tăng thời gian nghỉ thai sản từ 4 tháng theo quy định hiện hành lên 5
tháng đối với lao động nữ làm việc trong điều kiện bình thường; tăng
thời gian nghỉ chế độ thai sản từ 5 tháng hiện hành lên 6 tháng đối với
lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc
theo chế độ 3 ca; nữ quân nhân, nữ công an nhân dân…
Về tuổi nghỉ hưu, dự thảo thể hiện
theo hướng khẳng định, lao động nữ đủ 55 tuổi, lao động nam đủ 60 tuổi
có quyền nghỉ hưu. Đồng thời, giao Chính phủ quy định tuổi nghỉ hưu đối
với một số loại lao động đặc thù khi người lao động tự nguyện kéo dài
thời gian làm việc và được sự đồng ý của người sử dụng lao động.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Về các
vấn đề xã hội về dự thảo Bộ luật Lao động nhất trí với sự cần thiết
phải sửa đổi Bộ luật Lao động cũng như về phạm vi điều chỉnh và đối
tượng áp dụng của luật.
Liên quan đến các nội dung cụ thể
trong dự thảo Bộ luật Lao động, Báo cáo cho rằng, cần bổ sung quy định
cơ cấu cụ thể của tiền lương cũng như quy định căn cứ để trả lương nhằm
bảo vệ người lao động. Đồng thời, cần làm rõ phạm vi tham gia của Nhà
nước đối với vấn đề tiền lương. Báo cáo đặt câu hỏi: “Dự án Bộ luật Lao
động vẫn giữ lại quy định về thang lương, bảng lương nhưng bỏ quy định
đăng ký mà chỉ sao gửi đến các cơ quan tổ chức liên quan… Cần phải xem
xét có cần thiết tiếp tục giữ quy định này không, quy định này mang lại
lợi ích thiết thực gì cho người lao động”?
Cơ bản thống nhất với quan điểm
của Chính phủ về thời gian làm thêm, song Thường trực Ủy ban Về các vấn
đề xã hội yêu cầu bổ sung giới hạn “chỉ cho phép làm thêm giờ trong một
số ngành nghề cụ thể; theo độ tuổi nhất định; có sự phân biệt giữa làm
thêm ban ngày, làm thêm ban đêm, làm thêm vào ngày nghỉ”…
Về thời gian nghỉ thai sản, Thường
trực Ủy ban này cho rằng, nên quy định linh hoạt bằng việc đưa ra mức
sàn tối thiểu, có thể là 4 tháng và cho phép thời gian nghỉ tối đa là 6
tháng. Trên cơ sở đó, lao động nữ có quyền lựa chọn, quyết định thời
gian nghỉ cho phù hợp với công việc, cuộc sống của mình.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ nhiệm
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý nhấn mạnh, Hiến pháp tới
đây sẽ được sửa đổi, trong đó có nhiều vấn đề về quyền và nghĩa vụ công
dân liên quan đến người lao động, do đó, cần nghiên cứu để đảm bảo tính
thống nhất của Bộ luật Lao động với Hiến pháp.
Về thỏa ước lao động, ông Phan
Trung Lý cho biết, các nước thường có thỏa ước mẫu, các doanh nghiệp
căn cứ vào đó để lập thỏa ước phù hợp với điều kiện cụ thể của mình.
“Không nên có thỏa ước áp dụng chung cho cả một ngành, vì mỗi doanh
nghiệp vẫn có những đặc thù khác nhau”, ông nói. Ông Phan Trung Lý cho
rằng, không nên quy định tăng giờ làm thêm, hạn chế việc sử dụng lao
động tùy tiện.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân
sách Phùng Quốc Hiển tán thành quan điểm của ông Phan Trung Lý về thỏa
ước lao động tập thể mẫu. Tuy nhiên, ông Phùng Quốc Hiển đồng tình “nới”
rộng thời gian làm việc ngoài giờ. Liên quan đến Quỹ quốc gia về việc
làm, ông Phùng Quốc Hiển đề nghị làm rõ nguyên tắc xây dựng, sử dụng quỹ
để không trùng lắp với Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết
việc làm… “Cứ sinh ra một quỹ là nảy sinh rất nhiều vấn đề”, ông bình
luận.
|
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
nêu câu hỏi: nên chăng Bộ luật Lao động có thể quy định thêm một ngày
nghỉ Tết âm lịch. “Hiện nay số ngày nghỉ dịp này là 4 ngày, thường “kẹp”
một ngày đi làm vào giữa kỳ nghỉ. Ngày đó cũng rất ít cơ quan đơn vị
làm việc thực chất”. Ban soạn thảo Bộ luật Lao động
cho biết chưa đưa vấn đề này vào dự thảo. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Thị Kim Ngân, từng chủ trì Ban soạn thảo Bộ luật với tư cách Bộ trưởng
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tán đồng quan điểm của Chủ tịch Quốc
hội và cung cấp thêm thông tin, số ngày nghỉ của người lao động Việt
Nam hiện vẫn thấp hơn mức bình quân trong khu vực Đông Nam Á. |
|
Một trong những nội dung được
nhiều thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm cho ý kiến liên quan
đến vấn đề tài chính công đoàn. Theo dự thảo Luật, một trong những
nguồn thu hình thành tài chính công đoàn là “kinh phí công đoàn do cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% tổng quỹ tiền lương thực trả
cho người lao động”.
Bàn về vấn đề này, ông Phan Trung
Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đặt câu hỏi: “Căn cứ nào để quy định mức
đóng kinh phí là 2% quỹ lương? Mức đóng góp đó nếu thu đủ thì tổng thu
được bao nhiêu, dự toán chi thế nào”? Mặt khác, theo quy định của Luật
Ngân sách Nhà nước, việc bảo đảm kinh phí hoạt động của tổ chức công
đoàn thuộc nhiệm vụ chi thường xuyên của ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương. Đối với các đơn vị hưởng lương từ ngân sách thì việc
trích nộp 2% quỹ lương thực chất là ngân sách nhà nước phân bổ cho cơ
quan, đơn vị nộp cho công đoàn và như vậy là không đúng với quy định
hiện hành về lập dự toán thu, chi, quyết toán ngân sách nhà nước. Đối
với đơn vị không sử dụng quỹ lương từ ngân sách nhà nước thì việc trích
nộp như trên làm gia tăng chi phí sản xuất kinh doanh, trong khi lại
không xác định rõ việc nộp khoản kinh phí này cho công đoàn để làm nghĩa
vụ gì; từ đó dễ dẫn đến những “rào cản” đối với việc thành lập và hoạt
động của công đoàn.
Bên cạnh đó, xét trên bình diện
chung, ngoài khoản kinh phí được ngân sách nhà nước phân bổ hàng năm,
các tổ chức chính trị - xã hội khác không có khoản thu như nêu trên, đó
là chưa kể công đoàn còn có các nguồn thu khác từ hoạt động văn hóa, thể
thao, kinh tế của công đoàn… Do vậy, ông Lý cho biết, nhiều ý kiến
trong Ủy ban Pháp luật đề nghị: để đảm bảo thống nhất với Luật Ngân sách
Nhà nước cũng như sự bình đẳng với các tổ chức chính trị xã hội khác,
Luật Công đoàn chỉ nên quy định kinh phí hoạt động của công đoàn do ngân
sách nhà nước bảo đảm theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân
sách Phùng Quốc Hiển cho rằng, một nội dung rất quan trọng mà dự thảo
Luật cần làm rõ là quyền lợi của người lao động khi tham gia tổ chức
công đoàn. “Dự thảo Luật nêu rất chi tiết quyền của tổ chức công đoàn,
của cán bộ công đoàn các cấp nhưng quyền của người lao động, quyền của
doanh nghiệp sử dụng lao động cũng chưa rõ”, ông Hiển nhận xét.
Ủng hộ việc củng cố tài chính công
đoàn, ông Phùng Quốc Hiển không bác chuyện đóng góp cho quỹ công đoàn,
nhưng yêu cầu Ban soạn thảo có cách lý giải hợp lý. “Trước đây trích 2%
quỹ lương vì tất cả cùng là tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, cùng từ ngân
sách nhà nước, nhưng bây giờ thực hiện kinh tế thị trường thì phải tính
lại, nếu không doanh nghiệp sẽ hiểu đây là một dạng thuế. Tôi cũng rất
băn khoăn chuyện này mà chưa nghĩ ra cách gỡ”, Chủ nhiệm Ủy ban Tài
chính và Ngân sách giải thích.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã
hội Trương Thị Mai chia sẻ: “Công đoàn không thể không có tài chính
mạnh. Thậm chí cán bộ công đoàn chuyên trách phải do công đoàn trả lương
thì mới có thể đấu tranh được với chủ sử dụng lao động. Nhưng lý giải
như dự thảo Luật thì đúng là chưa ổn”.
Trên thực tế, việc trích 2% quỹ
lương thực trả cho quỹ công đoàn hiện đang được thực hiện đối với các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp của Việt Nam. Tỷ lệ này áp dụng với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ là 1%.
ANH PHƯƠNG
1,925
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN