Luật sư-ĐBQH TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA, Phó
Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam: Phải luật hóa quy định quyền im lặng Về quyền im lặng, pháp luật hiện hành cũng đã quy định những
điều kiện nhất định nhưng chưa đầy đủ. Ví dụ như quy định người bị tạm giữ, tạm
giam, bị can, bị cáo có quyền có luật sư trong một thời hạn nhất định. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, quyền có luật sư không được thực hiện kịp thời
và chỉ sau khi đã có nhiều bản cung trước rồi thì luật sư được mời hoặc được
chỉ định mới được tham gia. Hiện Điều 31 Hiến pháp quy định rất rõ người bị tạm giữ, bị
bắt, bị can, bị cáo có quyền có luật sư, có quyền bào chữa và có quyền nhờ
người khác hoặc luật sư bào chữa. Hiến pháp cũng quy định nguyên tắc tranh tụng
và cũng quy định nguyên tắc suy đoán vô tội. Với nguyên tắc suy đoán vô tội
thì người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo phải được đối xử như người
không có tội cho đến khi có bản án buộc tội của tòa án. Lý do nữa, điều này cũng được quy định trong Công ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam đang tham gia. Tiếp nữa, chúng ta đang hội
nhập với các nước, hội nhập WTO, tiến tới cộng đồng chung ASEAN, đang thương
lượng gia nhập TPP… Tất cả sự hội nhập này dẫn đến quan hệ giữa các nước,
doanh nghiệp và người dân với nhau sẽ được tăng cường mạnh mẽ. Như vậy, nếu
có phạm pháp xảy ra sẽ xử theo quy trình giống nhau. Các nước xung quanh, kể
cả các nước gần chúng ta nhất, gần như họ đều quy định quyền im lặng của người
bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo. Có thể nói Việt Nam đã chậm chễ trong
việc luật hóa quy định này. Quyền im lặng sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn cho công lý, cho
quyền con người và hoạt động tư pháp. Nó thể hiện ở chỗ công dân khi bị tình
nghi và bắt buộc phải khai báo với cơ quan điều tra, họ biết là họ có luật
sư, đồng thời họ được luật sư tư vấn một cách hợp pháp. Khi đó lời khai của họ
sẽ công bằng, khách quan hơn, hiện tượng phản cung sẽ giảm đi rất nhiều, hiện
tượng mớm cung, bức cung và nhục hình cũng sẽ giảm đi vì khi có những hiện tượng
đó họ sẽ báo cho luật sư biết ngay. TS-luật sư PHAN TRUNG HOÀI, Chủ nhiệm Ủy
ban Bảo vệ quyền lợi luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam: Là nguyên tắc tiến bộ Quyền im lặng (hay nguyên tắc Miranda) là một trong những
quyền hết sức quan trọng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, được
pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới ghi nhận. Khi một người
bị tình nghi phạm tội, bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ, cơ quan điều tra phải
thông báo cho họ biết về quyền im lặng cho đến khi có sự hiện diện của luật
sư do mình yêu cầu hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định (khi họ không
có khả năng thanh toán phí luật sư). Nếu họ khai báo mà không có mặt luật sư
thì lời khai đó sẽ là bằng chứng chống lại họ. Đó là một nguyên tắc tiến bộ,
phổ quát trên thế giới nhưng lại chưa được pháp luật tố tụng hình sự nước ta
ghi nhận. Hiện nay trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng
hình sự, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã kiến nghị cần ghi nhận quyền này nhưng
cần điều chỉnh cho phù hợp với mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm lịch sử cụ
thể sự vận hành hệ thống tư pháp của nước ta. Cụ thể, cùng với việc xác định
quyền tự bào chữa và nhờ luật sư và người khác bào chữa đã được quy định
trong Hiến pháp, điều quan trọng nhất hiện nay là khi bắt giữ, tạm giam người
bị tình nghi phạm tội, cơ quan điều tra và điều tra viên phải thông báo và lập
biên bản, giải thích quyền này cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và tạo điều
kiện cho luật sư tiếp cận ngay từ đầu để trợ giúp pháp lý cho họ. Trên cơ sở
đó, luật sư phải được chủ động gặp, trao đổi và tư vấn cho người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can, được quyền thu thập và hỗ trợ thu thập chứng cứ nhằm chứng minh
sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Lo ngại tòa “lấn át” cơ quan truy tố, điều tra Góp ý dự thảo Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức VKSND sửa
đổi, nhiều thành viên trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội lo ngại việc cho phép
tòa án có quyền kiểm tra, kiểm soát toàn bộ quá trình tố tụng từ điều tra,
truy tố, xét xử hoặc tòa án có quyền điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ
trong trường hợp cần thiết đối với các vụ án hình sự dễ “làm loạn” quá trình
điều tra. Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho rằng công tác
điều tra, thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan
điều tra. “Thực tế ở Việt Nam cũng như trên thế giới không có quy định tòa án
có thẩm quyền điều tra, thu thập chứng cứ, trừ thẩm quyền điều tra, thẩm vấn
tại phiên tòa” - ông Hiện nhấn mạnh. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng đề nghị tòa án chỉ
nên xem xét hồ sơ, nếu thấy hồ sơ đủ điều kiện thì mở phiên tòa xét xử. Còn nếu
không đủ thì trả lại hoặc tự đi xác minh bổ sung. “Khi xét xử và trong quá
trình tranh tụng, nếu nhận thấy “ông” điều tra, truy tố có vấn đề thì tòa có
quyền xác minh, làm rõ. Chứ tòa mà lại được phép nhảy vào khâu điều tra, truy
tố thì sẽ “làm loạn” quá trình điều tra” - ông Hùng thể hiện quan điểm. Theo Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Hòa Bình, nếu như
tòa án tham gia ngay từ đầu quá trình tố tụng thì sẽ “lấn sân” của các cơ
quan chức năng khác. “Tòa án không thể xem xét việc khởi tố là sai hay đúng.
Đối với vụ án, nếu tòa có thể xác minh thêm mà không phải trả hồ sơ điều tra
cho VKS thì được. Chứ còn những việc khác thì không phù hợp” - ông Bình nói. Về phạm vi, nội dung, chức năng thực hành quyền công tố của
VKSND được quy định trong dự thảo Luật Tổ chức VKSND, ông Hiện cho hay: “Theo
Ủy ban Tư pháp, kết quả giám sát thời gian qua cho thấy việc giải quyết các tố
giác, tin báo về tội phạm còn tiềm ẩn nguy cơ bỏ lọt tội phạm. Trong khi đó,
những hoạt động này được tiến hành trước khi khởi tố vụ án. Do đó nếu chỉ quy
định VKSND thực hành quyền công tố từ khi khởi tố vụ án hoặc từ khi khởi tố bị
can thì không ràng buộc được trách nhiệm của VKS, không đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, yêu cầu chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm. Vì vậy Ủy ban Tư
pháp đề nghị quy định thời điểm thực hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm”. THÀNH VĂN |