Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng biện
pháp đặt tiền để bảo đảm khi có đủ các điều kiện sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ
ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- Bị can, bị cáo có khả năng về tài chính để đặt bảo đảm
theo quy định. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần mà không có hoặc không đủ tiền để đặt bảo đảm thì xem xét đến
khả năng tài chính của người đại diện hợp pháp của họ;
- Có căn cứ xác định, sau khi được tại ngoại, bị can, bị
cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và không tiêu
huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử;
- Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng
đến an ninh, trật tự;
- Bị can, bị cáo không thuộc trường hợp phạm một trong các
tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh; phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người; hành vi phạm tội gây dư luận xấu trong nhân
dân….
Mức tiền được đặt để bảo đảm do Cơ quan điều tra, VKS, Tòa
án quyết định nhưng không 20 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 80
triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng, 200 triệu đồng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng.
Đối với các trường hợp bị can, bị cáo là đối tượng đặc biệt
như thuộc hộ nghèo; là thương binh, bệnh binh,
được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh
hùng lao động, người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần… thì
các cơ quan trên có thể quyết định mức tiền bảo đảm thấp hơn, nhưng không dưới
1/2 mức nêu trên.
Thông tư liên tịch
17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC có hiệu lực kể từ 15/01/2014.
Thanh Hữu
13,296
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN