 |
TS Nguyễn Đình Cung. Ảnh: VGP/Huy Thắng |
Đây là một số điểm nhấn trong ý kiến của TS. Nguyễn Đình Cung khi phân
tích thêm về Đề án tái cơ cấu kinh tế trong cuộc trao đổi với phóng viên
Cổng TTĐT Chính phủ.
Thưa ông, có ý kiến cho rằng cần phải tính toán
chi phí, nguồn lực và dự trù ngân sánh thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng?
TS.Nguyễn Đình Cung: Mục đích trực tiếp của
tái cơ cấu là nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực. Đề án tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là quá trình phân
bố lại nguồn lực để nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế, không phải
là gói cứu trợ nền kinh tế để vượt qua khủng hoảng.
Nguồn lực mà chúng ta dựa vào đó để tái cơ cấu nền
kinh tế là tổng nguồn lực xã hội hiện có và nguồn lực được bổ sung hàng
năm. Để tái cơ cấu kinh tế, Nhà nước chủ yếu xây dựng, hoàn thiện chính
sách, thể chế, tạo ra hệ thống đòn bẩy khuyến khích hợp lý thúc đẩy và
tạo điều kiện thuận lợi để khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình cơ cấu
lại danh mục tài sản, danh mục đầu tư và các hoạt động kinh doanh. Tác
động của chính sách này cũng vận động theo thị trường, các chính sách ưu
tiên, cách thức thiết kế ưu tiên, chương trình hỗ trợ...là tạo động lực
mới thúc đẩy DN có lợi từ chính sách này sẽ làm theo chính sách để mình
đạt được mục tiêu.
Như vậy, quá trình phân bổ lại nguồn lực trong nền
kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh
chủ yếu do khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình trực tiếp thực hiện, các
chi phí điều chỉnh, nếu có đều do các doanh nghiệp tự trang trải. Còn
hoạt động của cơ quan Nhà nước để triển khai đề án tái cơ cấu về cơ bản
đều nằm trong chức năng, phạm vi, thẩm quyền và hoạt động bình thường
trong quản lý nhà nước và trong phạm vi kế hoạch ngân sách được Quốc hội
và các cơ quan có thẩm quyền thông qua.
Tuy nhiên, đối với một số đề án thành phần hay chính
sách cụ thể có thể phát sinh một số chi phí nhất định. Ví dụ, để khuyến
khích, thúc đẩy hoặc hỗ trợ đầu tư phát triển một số ngành hay vùng kinh
tế, Nhà nước phải có những ưu đãi hơn về thuế, tín dụng, hoặc phải thực
hiện một số chương trình hỗ trợ phát triển cụm công nghiệp liên ngành,
liên vùng… Số chi phí cần thiết đó phụ thuộc vào phạm vi, đối tượng và
công cụ chính sách cụ thể, và được xác định khi xây dựng các chính sách
liên quan.
Một số ý kiến cho rằng Đề án tổng thể cơ cấu kinh tế không có khâu đột phá. Ý kiến của ông về vấn đề này?
TS.Nguyễn Đình Cung: Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2011-2020 đã xác định ba khâu đột phá. Để thực hiện đột
phá về hạ tầng, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
thông qua Nghị quyết 13/NQ-TW về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ nhằm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020. Chính phủ đang triển khai chương trình hành động thực hiện
nghị quyết nói trên cũng như chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011-2020…
Như vậy, Đề án tái cơ cấu kinh tế kế thừa các đột phá
chiến lược, thực hiện các đột phá chiến lược sẽ tạo tiền đề và thúc đẩy
quá trình tái cơ cấu kinh tế.
Thay vì tìm kiếm thêm các khâu đột phá, Đề án tái cơ
cấu nhấn mạnh đến tính “ưu tiên”, “trọng tâm”, “đồng bộ” trong các nội
dung và giải pháp tái cơ cấu kinh tế. Tập trung tái cơ cấu ba lĩnh vực
trọng tâm khởi động cho cả quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng. Đó là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước mà trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tái cơ cấu
các ngân hàng thương mại.
Phải nói rằng hệ tư duy hiện chính sách đang được chi
phối bởi quan điểm hiện hành, với hàng loạt hệ thống văn bản pháp luật.
Đề án này đặt trong bối cảnh hiện tại, bổ sung những cái đang có chứ
không thể hoàn toàn thay thế. Đề án này không nêu tất cả mà nêu ra những
“vấn đề có thể giải quyết được”, có tính khả thi.
Thực tế hiện nay, nước ta có thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhiều thành phần, đa đạng
hóa các hình thức sở hữu, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay chủ
yếu là thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu dựa vào
tăng quy mô các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên) sang gia tăng
hiệu quả , năng suất lao động, và năng suất các yếu tố tổng hợp để các
yếu tố này trở thành động lực tăng trưởng kinh tế. Do đó, đề án tập
trung chủ yếu vào thay đổi vai trò tương đối của các nhân tố sản xuất
trong tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong Đề án có đề cập một số ngành mũi nhọn mà đó
là những ngành mà có ý kiến cho rằng tiêu hao nhiều năng lượng (chẳng
hạn đóng tàu, luyện kim) thay vì ưu tiên phát triển cho các ngành dệt
may, da giày? Ông có thế nói thêm điều gì?
TS. Nguyễn Đình Cung: Trong Đề án có 2 cấp độ
ưu tiên, giai đoạn 2011- 2015 dệt may, da giày vẫn được ưu tiên. Nhưng
đây là ngành có giá trị gia tăng thấp, có thể hiện nay có năng lực canh
tranh nhờ lao động rẻ (nhưng trong 5 năm nữa có thể không còn rẻ).
Nhưng chúng ta cũng không nên quá dựa vào khả năng cạnh tranh về chỉ số
này. Vì tiền lương thấp, thu nhập thấp, sẽ khó có khả năng phát triển
thêm kỹ năng. Trong 10-20 năm nữa phải có hệ thống ngành mới thay thế
cho những ngành hiện nay. Lúc đó mới tính đến những ngành như điện tử,
chế biến lương thực, thực phẩm, luyện kim, đóng tàu, du lịch,
logistic...
Nói về luyện kim, đây là ngành công nghiệp cơ bản,
một nước có công nghiệp cơ khí, điện tử... phát triển thì không thể
thiếu những ngành công nghiệp cơ bản như luyện kim, hóa dầu làm nguyên
liệu đầu vào… Vấn đề là chất lượng phải cao mà chi phí rẻ. Thực ra,
khó có nước nào có thể làm tốt ngày từ đầu khi phát triển công nghiệp,
vì đi sau nên phải qua quá trình vừa làm vừa học, vấn đề là làm sao học
được nhanh nhất.
Các nước phát triển đang có xu hướng đẩy một số
ngành công nghệ không quá cao, không làm nữa, trong khi Việt Nam có lợi
thế thì vẫn có thể thu hút. Ta hãy thử đặt lại câu hỏi, trừ những nước
như Singapore đi theo con đường riêng thì trên thế giới, có quốc gia nào
có nền công nghiệp phát triển mà không có luyện kim?
Về đóng tàu, Việt Nam, cho đến năm 2008, là một trong
những quốc gia có đơn đặt hàng tăng nhanh nhất. Từ 0,25% thị phần năm
2006 thì năm 2008, chúng ta chiếm 2,6%, thuộc loại tăng rất nhanh. Thực
tế, ngành đóng tàu đang có vị trí không kém, do nước ta có lợi thế về
đường bờ biển dài, chiến lược biển, kỹ năng của lao động. Đặc thù riêng
của ngành đóng tàu, công nghệ không lỗi thời nhanh như công nghệ tin
học, sử dụng nhiều lao động, hoàn toàn tiếp cận được công nghệ. Hơn nữa,
những công nghệ không phải “đỉnh cao” thì các nước phát triển dễ dàng
chuyển giao hơn.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng ngành thép, xi măng đang
có vấn đề về thừa, hay vấn đề về ngành đóng tàu. Nhưng đây là do một
vài vấn đề quản lý đầu tư chứ không phải lỗi của ngành nghề.
Thưa ông, lại có ý kiến lo ngại tái cơ cấu kinh tế sẽ làm gia tăng thất nghiệp và các vấn đề xã hội?
TS Nguyễn Đình Cung: Tôi cho rằng
nguyên tắc chỉ đạo là tái cơ cấu kinh tế phải gắn liền với an sinh xã
hội. Theo đó, bên cạnh thực hiện tái cơ cấu kinh tế, trong điều hành và
chỉ đạo kế hoạch hàng năm Chính phủ luôn nỗ lực đạt được mức tăng trưởng
hợp lý để đảm bảo an sinh xã hội. Thực tế, các giải pháp thúc đẩy, hỗ
trợ khu vực tư nhân phát triển sẽ tạo được việc làm cho người lao động,
bao gồm số lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp hoặc bị mất việc do cải
cách, thu hẹp quy mô tương đối của các doanh nghiệp nhà nước.
Do đó, tái cơ cấu kinh tế sẽ cải thiện an sinh xã hội, không làm phát sinh thêm chi phí.
Xin trân trọng cám ơn ông!
Huy Thắng