 |
Ảnh minh họa |
Phát triển đội ngũ Luật sư “có tâm, có tầm”
Mới đây, qua việc tổng kết 5 năm thi
hành Luật LS 2006, những kết quả và hạn chế trong tổ chức, hoạt động LS
đã được phân tích và nổi lên 3 vấn đề chính là: phát triển đội ngũ LS
cùng các điều kiện bảo đảm quyền hành nghề cho LS; hoạt động của các tổ
chức hành nghề LS; quản lý Nhà nước và tính tự quản của các tổ chức xã
hội nghề nghiệp của LS đối với đội ngũ và hoạt động LS. Những vấn đề này
cũng đã được ban soạn thảo thống nhất là “trọng tâm” để sửa đổi, bổ
sung Luật LS.
LS.Trần Công Ly Tao (Phó Chủ nhiệm ĐLS
TP.HCM) nhận thấy, Luật LS và sự “khập khiễng” giữa Luật LS và các VBPL
khác, đặc biệt là các luật tố tụng đang “cản trở chất lượng hoạt động
LS, nhất là thời hội nhập”. Muốn phát triển đội ngũ LS “có tâm, có tầm”
thì trước hết phải bắt đầu từ khâu đào tạo LS vào nghề chặt chẽ với qui
trình thi tuyển phù hợp để khách quan, chính xác và đúng người hơn. Thực
tế, còn nhiều LS không hề tham gia bất kỳ hoạt động hành nghề nào từ
khi được cấp chứng chỉ và thẻ LS. Điều đó cho thấy, họ không thực sự
quan tâm và sống bằng nghề LS, mà một phần nguyên nhân là do điều kiện
trở thành LS quá dễ dãi, ngay từ khâu xét tuyển để đào tạo, chế độ miễn
đào tạo hoặc tập sự…
Tán thành quan điểm tập trung vào khâu
đào tạo, LS.Trần Tuấn Phong (Công ty Luật VILAF-Hồng Đức) khẳng định,
trong mọi điều kiện LS đều có thể phát triển. Tuy nhiên, để có được đội
ngũ LS đủ sức hội nhập thì cần quan tâm đến chất lượng đội ngũ mà phải
bắt đầu từ khâu đào tạo và tổ chức hành nghề LS.
Tránh tình trạng tập sự kiểu “tập bơi
trên cạn”, TS.Nguyễn Văn Huyên (Phó Giám đốc Học viện Tư pháp) đề nghị,
trong những vấn đề đào tạo LS, cần sửa vấn đề “cộm” nhất là việc tập sự
hành nghề LS. Hiện người tập sự hành nghề LS chỉ đang được “nhìn và ngó”
chứ chưa được thao tác nghề nghiệp nên “khi hành nghề rất bỡ ngỡ, ảnh
hưởng đến uy tín của LS và tổ chức hành nghề”.
Bảo đảm quyền hành nghề của LS
Kể từ khi thành lập (hơn 2 năm), Liên
đoàn LS Việt Nam đã nhận được hơn 200 đơn phản ánh tình trạng gây khó dễ
cho LS khi hành nghề từ các cơ quan tiến hành tố tụng, chủ yếu là trong
giai đoạn điều tra. Nên về cơ bản, đến nay, các qui định về quyền hành
nghề của LS đang “có như không”, được thực thi hay không đều phụ thuộc
vào “lòng tốt” của cơ quan, người tiến hành tố tụng hay những “mối quan
hệ thân tình” mà LS có được…
Đó là chưa kể đến những khó khăn khi LS
muốn tiếp cận thông tin, tài liệu từ phía các cơ quan công quyền nhằm
thu thập chứng cứ bảo vệ thân chủ. Bên cạnh đó, vẫn còn đến 50% LS không
có việc làm đều cho thấy “quyền hành nghề của LS đang bị vi phạm nghiêm
trọng” – LS.Đỗ Ngọc Thịnh (Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên đoàn LS
Việt Nam) nhận xét.
Sự thiếu đồng bộ giữa qui định của Luật
LS và các luật tố tụng hiện hành, lại không có văn bản hướng dẫn của
các cơ quan liên quan khiến LS có quyền mà vẫn bó tay trước những “cánh
cửa” tố tụng. Tạo sự liên thông giữa Luật LS và các luật tố tụng là một
trong những giải pháp được nhiều chuyên gia pháp lý và LS nêu lên tại
nhiều diễn đàn liên quan đến hoạt động LS vì coi đây là cơ sở để bảo đảm
quyền hành nghề của LS trong thực tế.
Hiện rất nhiều tổ chức hành nghề LS chỉ
có… 1 LS (kiêm nhiệm tất cả các vai trò). Điều đó là khiến qui mô tổ
chức hành nghề manh mún, nhỏ kẻ, điều hành yếu kém, thiếu tính chuyên
sâu… Vậy nên, bà Đỗ Hoàng Yến (Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp – Bộ Tư pháp)
cho rằng, nên đưa qui định thời gian hành nghề (3-5 năm) trước khi
được thành lập tổ chức hành nghề LS để củng cố thực lực của các tổ chức
hành nghề, cũng như khắc phục mâu thuẫn “hôm trước chưa được hành nghề,
hôm sau (được cấp chứng chỉ) đã là LS điều hành tổ chức hành nghề”...
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường (Trưởng ban soạn thảo): “Cần làm
Luật sửa đổi, bổ sung để giải quyết những vấn đề lớn, cấp bách, phục vụ
cho các chính sách mới của Đảng liên quan đến nghề LS với quan điểm là
trọng tâm vào vấn đề chất lượng, đạo đức, tính chuyên nghiệp, trách
nhiệm của LS trước khách hàng, XH và Nhà nước, có thể mở rộng đối tượng
được hành nghề LS (để giải quyết vấn đề số lượng), tạo sự liên thông với
luật về tố tụng. Đặc biệt, nhấn mạnh đến vai trò tự quản của Liên đoàn
LS Việt Nam trong quản lý LS vì “Liên đoàn càng mạnh, Nhà nước càng
nhàn, Liên đoàn tự quản, Nhà nước chỉ làm những việc Liên đoàn không thể
làm, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động LS”. Do vậy, trong lần sửa đổi
này, cần tập trung vào vấn đề LS và tổ chức hành nghề LS, nhấn mạnh đến
tính chuyên nghiệp hóa và tiệm cận dần với thị trường pháp lý quốc tế.
Đồng thời, hài hòa mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và Liên đoàn, quan
tâm đến tạo sự liên thông giữa LS nước ngoài và LS trong nước, để LS
trong nước vươn ra thị trường nước ngoài và thay thế LS nước ngoài tại
thị trường nội địa”. |
Huy Anh