
Dự thảo Nghị
định có 9 Chương với 88 Điều, quy định cụ thể các nội dung liên quan đến sở hữu
nhà ở, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà ở, giao dịch về nhà ở và quản lý
nhà nước về nhà ở tại Việt Nam quy định tại Luật Nhà ở năm 2014. Đối tượng áp
dụng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến sở hữu, phát triển, quản
lý, sử dụng và giao dịch về nhà ở tại Việt Nam…
Tạo thuận lợi cho chủ sở hữu thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ
Do Nghị định số 71/2010/NĐ-CP không có quy định về nội dung này nên trong quá trình thực hiện, người dân đã
gặp rất nhiều khó khăn, nhiều nơi đã yêu cầu phải nộp nhiều loại giấy tờ để
chứng minh nhân thân. Vì vậy, quy định như dự thảo sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các đối tượng này khi làm thủ tục đề nghị Nhà nước cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu đối với nhà ở, đặc biệt là đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài nhằm tránh hiện tượng gây phiền hà, nhũng nhiễu, yêu cầu người dân phải
nộp nhiều loại giấy tờ chứng minh nhân thân khi làm thủ tục công nhận quyền sở
hữu nhà ở; Dự thảo quy định đối với nhà ở riêng lẻ có từ hai tầng trở lên và
tại mỗi tầng có nhiều căn hộ được thiết kế, xây dựng theo kiểu khép kín có diện
tích sàn xây dựng từ 30m2 trở lên, đáp ứng quy định tại Điều 46 của Luật Nhà ở
thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với từng căn hộ trong nhà ở đó.
Quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP
để tạo thuận lợi cho các chủ sở hữu thực hiện đầy đủ các quyền của mình đối với
từng căn hộ trong nhà ở riêng lẻ; Ngoài các thông tin theo quy định của pháp
luật về đất đai thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận còn phải ghi thêm các thông tin
như thời hạn sở hữu nhà ở, diện tích sử dụng nhà ở... Đây là điểm mới so với
Nghị định số 71/2010/NĐ-CP nhằm cụ thể hóa quy định tại Điều 9, Điều 123 và
Điều 161 của Luật Nhà ở, tạo thuận lợi cho các chủ sở hữu thực hiện đầy đủ các
quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật Nhà ở, đồng thời giúp cơ quan nhà nước
có đầy đủ thông tin khi giải quyết việc chuyển quyền sở hữu nhà ở và các tranh
chấp liên quan đến quyền sở hữu nhà ở.
Hành lang pháp lý an toàn cho người tham gia
góp vốn
Trên cơ sở kế thừa quy định của Nghị định số
71/2010/NĐ-CP, đồng thời để cụ thể hóa quy định tại Điều 170 của Luật Nhà ở, dự
thảo đã quy định cụ thể việc quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu
tư xây dựng nhà ở, trong đó có phân biệt rõ các dự án thực hiện theo Luật Đầu
tư công, Luật Đầu tư và theo Luật Nhà ở; quy định cụ thể về nội dung hồ sơ dự
án đầu tư xây dựng nhà ở, về thực hiện dự án và các yêu cầu khi kết thúc giai
đoạn đầu tư xây dựng nhà ở...
Đối với trường hợp thực hiện theo Luật Nhà ở
thì trên cơ sở kế thừa quy định của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP và Nghị định số 11/2013/NĐ-CP năm 2013 của Chính phủ về quản lý đầu tư phát triển đô thị, dự thảo đã quy định
cụ thể về thủ tục, hồ sơ, trình tự và thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư
đối với từng loại dự án như (bao gồm dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định
chủ trương đầu tư và dự án do UBND cấp tỉnh quyết định); Dự thảo quy định thực
hiện thông qua 3 hình thức: Đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai và
pháp luật đấu giá; đấu thầu dự án và chỉ định chủ đầu tư. Quy định này nhằm cụ
thể hóa Điều 22 của Luật Nhà ở và được xây dựng trên cơ sở kế thừa các nội dung
của Nghị định 71/2010/NĐ-CP đang triển khai có hiệu quả trên thực tế, tạo cơ sở
pháp lý để các địa phương lựa chọn được các chủ đầu tư có năng lực, có đủ khả năng
tài chính để thực hiện dự án, tránh hiện tượng xin - cho trong việc lựa chọn
chủ đầu tư. Để hướng dẫn Điều 68 và Điều 69 của Luật Nhà ở, dự thảo quy định
việc huy động vốn phải được thực hiện theo đúng các hình thức nêu trong Luật
Nhà ở. Đối với trường hợp góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chỉ
được hưởng lợi nhuận mà không được phân chia sản phẩm nhà ở; chủ đầu tư chỉ
được thực hiện huy động vốn khi có đủ các điều kiện như: Đã có dự án được phê
duyệt, đã thực hiện giải phóng mặt bằng, đã bàn giao mốc giới và đã thông báo
cho Sở Xây dựng nơi có dự án; đối với hình thức ứng tiền mua, thuê mua nhà ở
trả trước phải thực hiện theo quy định của pháp luật kinh doanh bất động sản...
Quy định này có điểm khác so với quy định của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP nhằm
tạo hành lang pháp lý an toàn cho người tham gia góp vốn và hạn chế các trường
hợp lách luật để chiếm dụng vốn hoặc sử dụng sai mục đích nguồn vốn đã huy
động, đồng thời phân biệt rõ trường hợp huy động vốn với trường hợp mua bán nhà
ở hình thành trong tương lai theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản.
Các nội dung nêu trong dự thảo như: Việc xây
dựng kế hoạch phát triển nhà ở công vụ của các cơ quan Trung ương và địa
phương, các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở công vụ, thủ tục lựa chọn chủ đầu
tư dự án, việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng nhà ở, việc
mua, thuê nhà ở thương mại để làm nhà ở công vụ... được xây dựng trên cơ sở kế
thừa các quy định của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP, Quyết định 695/QĐ-TTg ngày 07/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý, bố trí cho thuê nhà ở
công vụ của Chính phủ và để cụ thể hóa quy định tại Điều 27 của Luật Nhà ở.
Về hình thức đầu tư xây dựng nhà ở công vụ,
cũng có ý kiến đề nghị bỏ quy định đầu tư theo hình thức xây dựng - chuyển giao
(BT), vì trong chính sách về hợp tác công tư hiện hành thì không áp dụng hình
thức này cho nhà ở công vụ. Bộ Xây dựng cho rằng, theo quy định của Luật Nhà ở
thì Nhà nước phải đầu tư vốn từ ngân sách để xây dựng nhà ở công vụ, trong khi
điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì việc đầu tư xây dựng nhà ở công vụ
theo hình thức BT là phù hợp, đặc biệt là đối với các địa phương có nguồn ngân
sách hạn chế. Do vậy, Bộ Xây dựng đề nghị cần quy định hình thức này vào dự
thảo để các địa phương có cơ sở thực hiện.
Người nước ngoài được gia hạn sở hữu nhà ở
thêm 50 năm
Để hướng dẫn quy định tại điểm b khoản 2 Điều
159, khoản 4 Điều 160 và khoản 2 Điều 161 của Luật Nhà ở, dự thảo quy định một
số nội dung chính như sau: Đối với cá nhân nước ngoài thì phải có hộ chiếu có
đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan xuất, nhập cảnh của Việt Nam và không
thuộc diện miễn trừ ngoại giao. Quy định về số lượng nhà ở mà tổ chức, cá nhân
nước ngoài được phép mua và sở hữu: Đối với nhà chung cư thì không được sở hữu
quá 30% số lượng căn hộ tại một tòa nhà chung cư, nếu có nhiều tòa nhà chung cư
trên một địa bàn có số dân tương đương cấp phường thì không được sở hữu vượt
quá số lượng 30% căn hộ của tất cả các tòa nhà chung cư đó; đối với nhà ở riêng
lẻ thì không được sở hữu vượt quá 10% số lượng nhà ở của mỗi dự án; trường hợp
trên một địa bàn có số dân tương đương cấp phường mà có một dự án hoặc nhiều dự
án có số lượng nhà ở riêng lẻ tương đương 2.500 căn thì tổ chức, cá nhân nước
ngoài chỉ được sở hữu tương đương bằng 250 căn. Chủ sở hữu chỉ được gia hạn sở
hữu thêm một lần tối đa không quá 50 năm; nếu là tổ chức nước ngoài thì tối đa
không quá thời hạn theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã được cơ quan có thẩm
quyền gia hạn hoạt động.
Ngoài các nội dung chính nêu trên, dự thảo cũng
quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Xây dựng, các Bộ, ngành có liên quan và UBND
các cấp trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nhà ở; quy định một
số trường hợp xử lý chuyển tiếp để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp
luật, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân có liên quan trong
quá trình thực hiện.
Thư Kỳ
Theo
Báo điện tử Xây Dựng
2,758
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN