Đếm trên đầu ngón tay
Thông thường, quỹ đầu tư hoạt động tự doanh bằng chính
nguồn vốn của công ty quản lý quỹ. Các quỹ đầu tư thường cung cấp dịch
vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp cho các đối tượng đầu tư dưới các hình
thức như quản lý đầu tư riêng lẻ cho từng cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước theo các hợp đồng ủy thác đầu tư.
Nguồn vốn đổ vào quỹ đầu tư có thể đến từ các tổ chức
cá nhân trong nước và nước ngoài, nên đây là hình thức quản lý vốn cho
NĐT.
Hiện nay tất cả quốc gia phát triển đều xác định lĩnh
vực CK là ngành công nghiệp chủ đạo của nền kinh tế. Trong đó, ngành
công nghiệp quản lý quỹ trong nước đóng vai trò then chốt trong việc
cung ứng vốn cho nền kinh tế và cả hệ thống ngân hàng.
Vì thế, phát triển ngành công nghiệp quản lý quỹ sẽ làm
tăng nhanh tính ổn định của TTCK cũng như tăng yếu tố cổ đông tổ chức
trong hệ thống doanh nghiệp, từ đó dễ dàng tác động để thay đổi phương
thức quản trị doanh nghiệp.
Chính vì vậy, lực lượng quỹ đầu tư thường chiếm 30-50%
giá trị giao dịch thị trường, với tỷ lệ tương ứng trong việc nắm giữ cổ
phần của các công ty đại chúng và niêm yết. Nhưng ở Việt Nam hoàn toàn
ngược lại. Đến thời điểm hiện nay, số quỹ đầu tư mới chỉ đếm trên đầu
ngón tay nhưng thời hạn hoạt động sắp kết thúc. Thậm chí, 3 năm qua,
không có công ty quản lý quỹ trong nước nào được thành lập.
Bất hợp lý
Theo ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội Các NĐT
tài chính Việt Nam (VAFI), một trong những nguyên nhân khiến số lượng
quỹ đầu tư tại Việt Nam còn khiếm tốn là chính sách thuế cho quỹ đầu tư
quá cao, thậm chí còn cao hơn rất nhiều so với các hình thức đầu tư CK
trực tiếp không thông qua quỹ.
Chẳng hạn, thông tư hướng dẫn về thuế GTGT, thuế thu
nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đối với lĩnh vực CK của Bộ
Tài chính, các NĐT cá nhân đầu tư vào CK sẽ chịu các loại thuế gồm: thuế
chuyển nhượng 0,1% trên giá trị chuyển nhượng (lỗ vẫn phải nộp), thuế
lợi tức trái phiếu 5% trên tổng lợi tức nhận được và thuế cổ tức 5% trên
số lợi nhuận được chia.
Trong khi đó, nếu đầu tư vào quỹ đầu tư, NĐT sẽ không
chịu thuế chuyển nhượng nhưng bị tính 5% thuế lợi tức và thuế suất thu
nhập doanh nghiệp 25% trên thu nhập chịu thuế.
Đây là cách tính thuế bất hợp lý vì NĐT cá nhân đầu tư
vào quỹ phải chịu nghĩa vụ thuế cao hơn rất nhiều so với hình thức đầu
tư trực tiếp không thông qua quỹ. Nếu quy định này thành hiện thực sẽ
không NĐT nào đầu tư vào chứng chỉ quỹ. Lúc đó các công ty quản lý quỹ
sẽ tuyên bố đóng cửa hoạt động và ngành công nghiệp quản lý quỹ trong
nước sẽ giải thể.
Thông thường, các quốc gia phát triển ưu đãi về thuế
cho tổ chức, cá nhân khi đầu tư vào quỹ hơn hình thức đầu tư trực tiếp,
bởi có như vậy mới tạo điều kiện thu hút nhiều vốn để thành lập nhiều
quỹ đầu tư.
Do đó, nguyên tắc cơ bản trong việc tính thuế đối với
các quỹ đầu tư là NĐT cá nhân trong nước và nước ngoài khi đầu tư vào
quỹ nghĩa vụ thuế tối thiểu phải đảm bảo không cao hơn so với việc trực
tiếp đầu tư vào CK. Ngược lại, NĐT tổ chức nước ngoài khi đầu tư vào quỹ
nghĩa vụ thuế không cao hơn so với đầu tư trực tiếp vào CK.
Từ thực tế trên, VAFI đã có ý kiến góp ý về cơ chế thuế
cho các quỹ đầu tư trong nước. Theo đó, chỉ nên tính thuế chuyển nhượng
0,1% cho từng giao dịch chuyển nhượng CK; thuế lợi tức trái phiếu, lợi
tức tiền gửi là 5%. Còn với đối tượng tổ chức trong nước sẽ áp dụng thuế
khoán khi đầu tư vào quỹ và khi họ nhận được cổ tức, khoản này không
phải chịu thuế thu nhập lần thứ 2.
Phương pháp tính thuế này thể hiện sự bình đẳng tương
đối về nghĩa vụ nộp thuế của NĐT cá nhân trong nước và nước ngoài, NĐT
nước ngoài khi đầu tư vào quỹ so với hình thức trực tiếp đầu tư CK.
Hải Hồ
Sài gòn đầu tư tài chính