Bước
chuẩn bị này thể hiện sự tính toán hợp lý từ phía Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) nhằm đảm bảo tăng trưởng tín dụng quí thứ hai của năm không còn
âm như quí 1 khi lạm phát đang yếu dần.
Thay đổi định nghĩa tổng tiền gửi và dư nợ
Điểm chú ý đầu tiên của dự thảo sửa đổi thông tư là tỷ lệ dư nợ cho vay
so với tổng tiền gửi. Tỷ lệ này được ấn định là 80% đối với các ngân
hàng và 85% đối với các công ty tài chính, không đổi so với Thông tư 13.
Năm ngoái khi tạm ngưng thực hiện một số điều của Thông tư 13, tỷ lệ
trên được nhiều ngân hàng thực thi ở mức 95%.
Như vậy về mặt số học, tỷ lệ trên lấy lại tỷ lệ của Thông tư 13, tức
giảm. Tuy nhiên định nghĩa thế nào là dư nợ cho vay và tổng tiền gửi mới
quan trọng.
Theo dự thảo sửa đổi, “tiền gửi bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ
hạn của tổ chức, cá nhân, không bao gồm tiền gửi của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác”. Theo Thông tư 13, “tiền gửi bao
gồm tiền gửi của cá nhân có kỳ hạn và không kỳ hạn; tiền gửi có kỳ hạn
của tổ chức; bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài”.
Thay đổi lớn nhất là tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức được tính vào
tổng tiền gửi. Đây là thay đổi căn bản, nâng tổng tiền gửi của ngân hàng
vì tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức (đặc biệt tiền gửi thanh toán của
doanh nghiệp) rất lớn. Các tổ chức như kho bạc, bảo hiểm xã hội, các
doanh nghiệp có số thu tiền đồng lớn như xăng dầu... đều có tiền gửi
không kỳ hạn lên tới hàng chục ngàn tỉ đồng/đơn vị. Hai năm trước, khi
tiền gửi của Kho bạc không được tính vào vốn huy động, một số ngân hàng
đã kêu trời!
Dự thảo thông tư loại bỏ tiền gửi của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài khác ra khỏi tổng tiền gửi, mà trên thực tế liên quan
đến vốn vay trên thị trường liên ngân hàng. Điều này làm cho tổng tiền
gửi trở nên thực chất hơn và nó cũng không ảnh hưởng nhiều đến tổng tiền
gửi hiện tại vì những ngân hàng đi vay trên liên ngân hàng chủ yếu là
các tổ chức tín dụng yếu kém, đang trong quá trình tái cơ cấu.
Về dư nợ cho vay, dự thảo thông tư không tính tiền gửi của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác vào tổng tiền gửi, thì dư nợ
cho vay của những tổ chức này cũng không tính vào tổng dư nợ. Điều này
khá sòng phẳng và xuyên suốt. Tuy nhiên các khoản đầu tư vào trái phiếu
doanh nghiệp, ủy thác cho vay và đầu tư lại được dự thảo thông tư đưa
vào tổng dư nợ. Năm ngoái đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác đầu
tư được nhiều ngân hàng tiến hành để lách dư nợ tín dụng, khiến cho tăng
trưởng tín dụng bị bóp méo. Từ quí 4-2011, NHNN đã kiểm soát chặt hai
loại hình tín dụng này.
Linh hoạt tín dụng chứng khoán
Cho vay chứng khoán được nới lỏng nhiều căn cứ vào dự thảo thông tư.
Theo Thông tư 13 (khoản 7-8-9, điều 8), tổ chức tín dụng không được cấp
tín dụng cho công ty trực thuộc hoạt động kinh doanh chứng khoán (nghĩa
là cắt hẳn nguồn tín dụng của ngân hàng cho công ty tài chính, công ty
chứng khoán trực thuộc); tổng dư nợ cho vay chứng khoán không được vượt
quá 20% vốn điều lệ ngân hàng. Dự thảo thông tư mở khá thoáng (điều 9):
khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện về tỷ lệ an toàn trong hoạt động, ngân
hàng được cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá
cho khách hàng đầu tư, kinh doanh cổ phiếu. Và tổng dư nợ cho vay chứng
khoán “không vượt quá tỷ lệ do NHNN quy định trong từng thời kỳ”.
Ngoài ra, theo Thông tư 13, các khoản cho vay đầu tư chứng khoán, các
khoản cho vay công ty chứng khoán, các khoản cho vay nhằm mục đích kinh
doanh bất động sản phải tính hệ số rủi ro 250%. Trong số này đầu tư trái
phiếu cũng được tính là đầu tư chứng khoán và nhiều ngân hàng đã có
thời không dám mua trái phiếu dù dư dả vốn. Dự thảo thông tư làm riêng
một phụ lục (gọi là phụ lục 2) để tính toán hệ số rủi ro của tài sản có,
theo đó hệ số rủi ro của các khoản cho vay chứng khoán được dự tính là
150%, giảm gần một nửa so với mức hiện hành.
Nhìn toàn bộ, dự thảo thông tư uốn nắn để dư nợ và vốn huy động trở về
đúng thuần chất của nó, không còn những mập mờ, hai mang mà bất kỳ ai
hiểu thế nào cũng được. Từ đây các tỷ lệ an toàn trong hoạt động sẽ phản
ánh đúng quan hệ cung cầu vốn, giúp cơ quan quản lý điều tiết các van
đóng mở tiền tệ một cách chính xác. Điều này là tối cần thiết khi mà tín
dụng cho nền kinh tế không những đang tăng trưởng âm, mà còn có những
chỗ lồi lõm, nơi cần vốn thì không thể tiếp cận, nơi thừa vốn thì không
thể cho vay.
Theo Lưu Hảo
TBKTSG