Đâu
là lý do chính khiến TQ “đốt nóng” biển Đông? Và giải pháp đối trọng cho Việt
Nam hạn chế về nguồn lực là gì?
Đó là nội dung mà các chuyên gia, học giả
tại chương trình Tổng kết giải thưởng nghiên cứu biển Đông do Quỹ Hỗ trợ nghiên
cứu biển Đông, thuộc Viện Nghiên cứu biển Đông (Bộ Ngoại giao Việt Nam) tổ chức
tại Học viện Ngoại giao ngày 31-3.
Tại
sao TQ ngày càng quyết đoán?
Đây là vấn đề TS Hà Anh Tuấn (ĐH New
South Wales, Úc) đề cập trong công trình nghiên cứu “Những vận động nội tại
thúc đẩy chính sách quyết đoán của TQ trên biển Đông từ sau 2007”. Đây là một
trong ba công trình nghiên cứu xuất sắc trong năm 2015.
Bằng phương pháp diễn giải, lấy thông
tin từ phỏng vấn 11 học giả TQ cùng nhiều chuyên gia quốc tế từ Mỹ, Úc và thu
thập tài liệu tiếng Trung trên Internet, TS Hà Anh Tuấn nhận định có ba nhân tố
chính tác động đến hành động ngày càng quyết đoán của Bắc Kinh.
Việc hình thành khái niệm “đường lưỡi
bò” từ rất sớm (năm 1949) cùng với cách diễn giải lịch sử, tuyên truyền diện rộng,
giáo dục nhiều thế hệ một cách sai lệch (về cả mặt lịch sử lẫn luật pháp quốc tế)
về chủ quyền biển đảo của chính quyền Bắc Kinh trong suốt mấy chục năm qua đã tạo
ra “hiện thực mới”, “lịch sử mới” sau mỗi lần căng thẳng khiến TQ khó có thể
lùi bước. Đó là chưa kể việc diễn giải lịch sử, thực tiễn không chính xác khiến
người dân TQ - vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa dân tộc - hiểu sai về
chủ quyền biển đảo của TQ, tạo áp lực khiến chính phủ TQ càng khó có đường lùi.

Ba tác giả đạt giải công trình nghiên cứu
xuất sắc năm 2014. (Từ trái sang: TS Hà Anh Tuấn; TS Vũ Hải Đăng; TS Trương
Minh Huy Vũ). Ảnh: ĐẠI THẮNG
Về khía cạnh quân sự, nhu cầu độc chiếm
biển Đông của TQ ngày càng lớn hòng phát triển đội tàu sân bay, tàu ngầm chiến
lược và hàng không vũ trụ. Song song đó, khả năng kiểm soát biển Đông của TQ
cũng tăng đáng kể trong những năm gần đây, thể hiện qua việc Bắc Kinh gia tăng
vũ khí và công nghệ hiện đại: radar OTH, hệ thống vệ tinh (Giao Cảm-1), hệ thống
GPS (Bắc đẩu-2), tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay (Đông Phong DF21-D). Như vậy
TQ vừa có động lực (mở rộng cơ sở hạ tầng quân sự) và vừa có cơ sở sức mạnh cứng
(vũ khí hiện đại) để hành động ngày một táo bạo, liều lĩnh và quyết liệt hơn.
Động lực cuối cùng thúc đẩy đến chính
sách ngày càng quyết đoán của Bắc Kinh ở biển Đông chính là kinh tế biển ngày
càng đóng vai trò quan trọng. Nhu cầu dầu lửa của TQ ngày càng lớn; kèm theo đó
là nhu cầu đánh bắt cá xa bờ ngày càng cao do ngư dân TQ đối diện tình trạng cạn
kiệt nguồn thủy sản ở gần. Ứng với hai nhu cầu cơ bản và quan trọng này, TQ có
hai nguồn lực tương ứng: các giàn khoan khai thác dầu khủng (giàn khoan 981), hệ
thống tàu đánh bắt cá xa bờ lớn, với lực lượng chấp pháp hùng hậu hỗ trợ. Thế
nên Bắc Kinh ngày càng tự tin trên từng nước cờ của mình, bất chấp các quan ngại
về luật pháp hay dư luận quốc tế.
Chính
sách quốc phòng “ba không 2.0” cho Việt Nam?
Hành động quyết đoán của TQ là không thể
phủ nhận. Tuy nhiên, làm thế nào để đối đầu với hành động ngày càng hung hăng,
liều lĩnh của Bắc Kinh nhưng vẫn đảm bảo được phương châm “ba không” (không
liên minh; không căn cứ quân sự nước ngoài; không sử dụng nước này chống nước
kia) đó là vấn đề mà TS Trương Minh Huy Vũ và cộng sự Nguyễn Thế Phương mong muốn
giải quyết qua đề xuất “Chính sách quốc phòng ba không 2.0”. (Phiên bản 2 của
chính sách quốc phòng ba không được TS Huy Vũ và cộng sự đề xuất năm 2014)
“Chính sách quốc phòng ba không 2.0 sẽ
là giải pháp vừa giúp Việt Nam đảm bảo ổn định và chủ quyền trước một TQ đầy sức
mạnh và quyết đoán; vừa đảm bảo Việt Nam vẫn theo đuổi tôn chỉ “ba không” theo
xu thế chung được quốc tế ủng hộ” - TS Trương Minh Huy Vũ nhấn mạnh.
Nếu so sánh cán cân sức mạnh quân sự giữa
Mỹ và TQ, dù Bắc Kinh đang dịch chuyển từ cường quốc lục địa sang cường quốc đại
dương thì trong ngắn hạn lực lượng hải quân phối hợp tác chiến của Washington vẫn
chiếm ưu thế tuyệt đối so với Bắc Kinh. Điều quan trọng hơn trong chiến lược
triển khai sức mạnh tại biển Đông của Mỹ chính là việc áp dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật mang tính đột phá nhằm tạo ưu thế thông tin, tình báo - giám
sát.
Điển hình là chiến lược tác chiến không
gian mạng; tác chiến không gian; máy bay, tàu ngầm không người lái; kỹ thuật người
máy; tác chiến điện từ… Tất cả Mỹ gọi là: Tiếp cận toàn diện (all domain
access) - tức Mỹ không chỉ chú trọng sức mạnh súng đạn mà còn ứng dụng công nghệ
vượt trội vào chiến lược giám sát, đối phó TQ ở biển Đông.
Vậy Việt Nam sẽ làm gì để có ưu thế từ
chiến lược “Tiếp cận toàn diện” của Mỹ? “Chính sách quốc phòng ba không 2.0”
chính là một gợi ý. Việt Nam có thể tham gia hợp tác như một nút thắt quan trọng
trong chiến lược “Tiếp cận toàn diện của Mỹ”, tiếp cận từ góc độ hợp tác tình
báo, môi trường biển, tự do hàng hải, khảo sát địa chất, chống cướp biển, phát
triển hệ thống công nghệ thông tin phục vụ phát triển hàng hải…
Bảo
tồn biển để đối trọng TQ
Nếu như TS Trương Minh Huy Vũ tiếp cận
chiến lược cho Việt Nam tại biển Đông ở góc độ “ba không 2.0” - chú trọng hợp
tác các vấn đề phi quân sự - thì TS Vũ Hải Đăng (Trường Luật Schilich, Canada)
lại đưa ra “Những định hướng pháp lý và chính trị hướng tới xây dựng một mạng lưới
các khu bảo tồn biển trên biển Đông” nhằm đối trọng Bắc Kinh.
Theo đó, TS Vũ Hải Đăng cho rằng: “Hầu
như tất cả chiến lược, sáng kiến của TQ trên biển Đông, mà gần nhất là vành đai
Con đường tơ lụa, đều hướng đến khai thác các lợi ích về kinh tế mà bỏ qua các
nhân tố về môi trường sống” - yếu tố an ninh phi truyền thống mà giới nghiên cứu
cũng đánh giá rất cao.
Để trám chỗ trống quan trọng này, “khu bảo
tồn” chính là đối tượng Việt Nam cần hướng tới xây dựng dựa trên cơ sở luật quốc
tế. Cụ thể ở cấp độ quốc gia, Việt Nam cần chú trọng thiết lập các khu bảo tồn
biển ở cấp độ quốc gia trên cơ sở những mục tiêu bảo tồn toàn khu vực; thiết lập
các khu bảo tồn biển xuyên biên giới; thúc đẩy các biện pháp ở cấp độ quốc gia
nhằm thực hiện các mục tiêu bảo tồn khu vực; thường xuyên cập nhật các mục tiêu
bảo tồn khu vực.
Ở cấp độ khu vực, Việt Nam cần thực hiện
tốt đề án mạng lưới các khu bảo tồn cá ở biển Đông; tăng cường năng lực cho cơ
chế danh sách các công viên bảo tồn ASEAN; xác định các khu vực quan trọng cho
các loài vật di cư ở biển Đông; phát triển các mạng lưới khu bảo tồn biển toàn
biển Đông trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế; thiết lập các khu vực bảo tồn biển
chống lại ô nhiễm môi trường biển từ tàu; tăng cường nghiên cứu khoa học biển để
xác định các khu vực có tiềm năng bảo tồn trong các khu vực có yêu sách chồng lấn.
Việc chủ động tiến hành thành lập các
khu bảo tồn trên biển - một hoạt động chắc chắn sẽ nâng cao vai trò, ưu thế Việt
Nam tại biển Đông và khu vực. Từ đó góp phần huy động lực lượng quốc tế tham
gia đóng góp vào quá trình ổn định an ninh môi trường nói riêng và an ninh khu
vực biển Đông nói chung.
Thiết
lập thể chế khu vực bảo tồn biển Cần thiết lập một thể chế
khu vực liên quan đến bảo tồn biển, trong đó chú trọng: i) Thiết lập một diễn
đàn khu vực cho các chuyên gia về khu bảo tồn biển thường xuyên gặp gỡ, trao
đổi; ii) Ký kết một hiệp định khung khu vực về khu bảo tồn biển; iii) Xây dựng
một cơ chế khu vực để quản lý hợp tác liên quan đến khu bảo tồn biển; iv) Thiết
lập một danh sách các khu vực cần được bảo tồn; v) Thiết lập một danh sách
các khu bảo tồn biển có tầm quan trọng xuyên biển Đông; vi) Thiết lập một cơ
chế giám sát ở cấp độ khu vực đối với các khu bảo tồn biển; vii) Thiết lập một
cơ chế thực thi đặc biệt ở cấp độ khu vực. TS Vũ Hải Đăng
(Trường Luật Schilich, Canada) Giải thưởng Nghiên cứu biển
Đông năm 2014 có 552 người tham gia ở 47 lĩnh vực khác nhau. Đây cũng là lần
đầu tiên phát động giải cho báo chí. Trong đó báo Pháp Luật TP.HCMvinh dự là
một trong sáu tác phẩm báo chí xuất sắc về biển Đông 2014 - loạt bài: “Giàn
khoan Hải Dương 981 trên bàn cờ biển Đông của TQ và giải pháp cho Việt Nam” của
cây bút Đỗ Thiện. Cây bút Thành Danh báo Pháp Luật TP.HCM cũng xuất sắc nằm
trong tốp 8 các bài viết nghiên cứu xuất sắc năm 2014 với đề tài: Liên minh sức
mạnh hay cầu nối ngoại giao: Đánh giá chung cường quốc qua trường hợp Úc và
Indonesia trong tranh chấp biển Đông. |
ĐẠI THẮNG
Theo
Pháp luật TP.HCM
2,859
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN