
Mua bán dữ liệu cá nhân trái phép có thể bị phạt đến 3 tỷ đồng từ 01/01/2026 (Hình từ internet)
Ngày 26/6/2025, Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025 (Luật số 91/2025/QH15).
Nghiêm cấm hành vi mua bán dữ liệu cá nhân trái phép
Theo đó, Điều 7 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025 quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong bảo vệ dữ liệu cá nhân bao gồm:
- Xử lý dữ liệu cá nhân nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Cản trở hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân.
- Lợi dụng hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Xử lý dữ liệu cá nhân trái quy định của pháp luật.
- Sử dụng dữ liệu cá nhân của người khác, cho người khác sử dụng dữ liệu cá nhân của mình để thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật.
- Mua bán dữ liệu cá nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
- Chiếm đoạt, cố ý làm lộ, làm mất dữ liệu cá nhân.
Mua bán dữ liệu cá nhân trái phép có thể bị phạt đến 3 tỷ đồng từ 01/01/2026
Theo Điều 8 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025 có quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân như sau:
(1) Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025 và quy định khác của pháp luật có liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân thì tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
(2) Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân thực hiện theo các quy định dưới đây và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
(3) Mức phạt tiền tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi mua bán dữ liệu cá nhân là 10 lần khoản thu có được từ hành vi vi phạm; trường hợp không có khoản thu từ hành vi vi phạm hoặc mức phạt tính theo khoản thu có được từ hành vi vi phạm thấp hơn mức phạt tiền tối đa quy định tại khoản (5) thì áp dụng mức phạt tiền theo quy định tại khoản (5).
(4) Mức phạt tiền tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức có hành vi vi phạm quy định chuyển dữ liệu cá nhân xuyên biên giới là 5% doanh thu của năm trước liền kề của tổ chức đó; trường hợp không có doanh thu của năm trước liền kề hoặc mức phạt tính theo doanh thu thấp hơn mức phạt tiền tối đa theo quy định tại khoản (5) thì áp dụng mức phạt tiền theo quy định tại khoản (5).
(5) Mức phạt tiền tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân là 03 tỷ đồng.
(6) Mức phạt tiền tối đa quy định tại các khoản (3), (4) và (5) được áp dụng đối với tổ chức; cá nhân thực hiện cùng hành vi vi phạm thì mức phạt tiền tối đa bằng một phần hai mức phạt tiền đối với tổ chức.
(7) Chính phủ quy định phương pháp tính khoản thu có được từ việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Như vậy, theo quy định mới, từ 01/01/2026, mức phạt tiền tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi mua bán dữ liệu cá nhân là 10 lần khoản thu có được từ hành vi vi phạm.
Trường hợp không có khoản thu từ hành vi vi phạm hoặc mức phạt tính theo khoản thu có được từ hành vi vi phạm thấp hơn mức phạt tiền tối đa thì mức phạt đối với hành vi này tối đa là 3 tỷ đồng đối với tổ chức và 1,5 tỷ đồng đối với cá nhân.
33
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN