Sáng nay 2/6, Quốc hội đã thảo luận về tình hình kinh tế - xã
hội và việc thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2013 và những tháng đầu năm 2014.
Đóng góp tại buổi thảo luận, TS.Vũ Tiến Lộc, đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình
đồng thời là Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã có bài phát
biểu gắn tình hình kinh tế với những diễn biến trên Biển Đông.

TS.Vũ Tiến Lộc bên hành lang Quốc hội.
Theo đánh giá của TS. Vũ Tiến Lộc, kỳ họp Quốc hội lần này
diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt. Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa các
hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn nhất trên Thế giới, trước hết là
Hiệp định với các đối tác xuyên Thái Bình Dương đang đi vào giai đoạn nước rút
và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU dự kiến kết thúc đàm phán cuối năm
nay. Vì vậy, việc chuẩn bị để đất nước sẵn sàng đón nhận các cơ hội và vượt qua
những thách thức từ các hiệp định thương mại tự do được đặt ra ở thời điểm này
cấp bách hơn bao giờ hết.
Cùng với đó, từ đầu tháng 5 đến nay, Trung Quốc
đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng
chủ quyền của nước ta. Theo đánh giá của TS.Lộc, việc này nếu không được ngăn
chặn sẽ làm tác động đáng kể tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc.
Đại biểu Vũ Tiến Lộc
phân tích, ở góc độ kinh tế, Việt Nam đang đứng trước những đòi hỏi mới trong
việc duy trì quan hệ thương mại ổn định với Trung Quốc, đồng thời tăng cường
các biện pháp hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường này. Tận dụng cơ hội
từ các hiệp định thương mại tự do đầy triển vọng nói trên, có thể là một cách
thức hữu hiệu nhằm đạt được mục tiêu này.
Liên quan tới quá trình
đàm phán và cách thức thực hiện các hiệp định thương mại tự do, đại biểu Lộc đề
nghị cần có các phương án đàm phán để đạt được các cam kết khả thi nhất cho nền
kinh tế, trong đó đặc biệt cần thận trọng và cứng rắn trong các vấn đề có ảnh
hưởng lớn tới người lao động, tới nông dân và sản xuất nông nghiệp như quyền
bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm, nông hóa phẩm, lao động đồng thời chú
trọng bảo lưu các không gian kinh tế chính sách cần thiết để Chính phủ có thể
hành động vì lợi ích công cộng hoặc định hướng cơ cấu kinh tế và bảo đảm cho
các doanh nghiệp có thể hưởng lợi thực chất từ các cam kết.
“Các hiệp định thương
mại tự do không chỉ mở ra các cơ hội phát triển mà còn là cơ hội để Việt Nam
giảm bớt và thoát khỏi tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc,
để bảo đảm sự phát triển bền vững và cân bằng của nền kinh tế. Thực tế hiện
nay, về nguồn cung ứng đầu vào sản xuất trong ngành dệt may, một số nguyên phụ
liệu chúng ta đã phải nhập 50 - 60% từ thị trường Trung Quốc và à có tới 90%
hợp đồng EPC (Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây
dựng công trình - PV) trong dự án nhiệt điện do nhà thầu Trung Quốc thi công.
Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn cung ứng tín dụng và vật tư nguyên liệu hàng
hóa từ Trung Quốc rất dồi dào và tương đối rẻ so với các đối thủ cạnh tranh”,
TS.Lộc dẫn chứng.
Cũng theo đánh giá của
Chủ tịch VCCI, với cam kết loại bỏ và ít nhất là giảm thấp nhất thuế quan vào
hàng rào cản kỹ thuật trong các hiệp định thương mại tự do từ các đối tác
thương mại hàng đầu trên thế giới ở thời gian tới, Việt Nam sẽ có điều kiện
nhập khẩu từ Hoa Kỳ, từ EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Nga…và
các nền kinh tế khác may móc, thiết bị, dịch vụ, nguyên liệu đầu vào, hàng tiêu
dùng.Việt Nam có thể tận dụng những lợi thế này để cạnh tranh với các nguồn
nguyên liệu đầu vào giá rẻ đồng thời thu hút đầu tư phát triển công nghiệp hỗ
trợ để giảm nhập khẩu đầu vào trong một số lĩnh vực trọng điểm của kinh tế Việt
Nam.
Về đầu ra của nền kinh
tế, theo số liệu chính thức, Trung Quốc chiếm khoảng 10% xuất khẩu Việt Nam,
tuy không phải là thị trường xuất khẩu lớn nhất nhưng Trung Quốc lại là thị
trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam và Trung Quốc cũng là thị trường
tiêu thụ một lượng gạo không nhỏ và nhiều nông sản khác của Việt Nam. Do đó,
thị trường này có nhiều ảnh hưởng tới thu nhập của một bộ phận đáng kể và nông
dân và những người sản xuất nông nghiệp của nước ta.
“Vẫn biết rằng giá xuất
khẩu sang Trung Quốc là rẻ mạt, có mặt hàng chỉ bằng 1/10 giá bán ở thị trường
các nước phương Tây và luôn có rủi ro rình rập nhưng chúng ta vẫn tiếp tục xuất
khẩu sang thị trường này bởi hàng rào thuế quan nhập khẩu ở các thị trường Âu -
Mỹ còn cao. Chúng ta chưa có được nền công nghiệp chế biến phát triển và chưa
biết cách nào để vượt qua khoảng cách xa xôi, bảo quản dài ngày trong quá trình
vận chuyển và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực
phẩm hết sức ngặt nghèo của những khách hàng giàu có và khó tính trên thế
giới”, TS.Lộc nói.
Vì vậy, để đầu tư đủ mức
cho các chuỗi hàng hóa đầu ra cho các sản phẩm đặc biệt là nông sản Việt Nam
tại các thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng của thế giới, theo đánh giá của
TS.Lộc, là nhu cầu sống còn của nền kinh tế Việt Nam mà cho đến nay chúng ta
còn làm chưa tốt. Chúng ta rất cần tìm ra những lối ra cho nền kinh tế, để
tránh tình trạng lệ thuộc bỏ trứng tất cả vào chung một giỏ như hiện nay. Nhưng
cũng cần thừa nhận một thực tế là, chúng ta đang kinh doanh trong một nền
thương mại kinh tế toàn cầu, nơi mọi doanh nghiệp, mọi nền kinh tế đều có sự
ràng buộc, liên hệ chặt chẽ đến nhau. Điều này đúng cả Việt Nam và Trung Quốc.
Trong những lúc có nhiều
người lo ngại vào hành động trả đũa ngược của Trung Quốc đối với Việt Nam khi
tranh chấp Biển Đông đang leo thang như đóng cửa biên giới, dừng các hoạt động
xuất nhập khẩu với Việt Nam thì cũng có không ít ý kiến cho rằng, Trung Quốc
không dễ gì làm được điều đó. Ít nhất là ở góc độ chính thức và ở quy mô lớn.
“Chúng ta biết rằng, các
hoạt động giao thương với Việt Nam đang là nguồn thu chính cho một số tỉnh
nghèo của Trung Quốc. Việt Nam cũng là thị trường lớn nhất Đông Nam Á của các
nhà thầu Trung Quốc. Nhà đầu tư Trung Quốc đang có lợi ích lớn, nhỏ từ các dự
án đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp tại Việt Nam. Tất cả những điều này khiến
người ta phải suy nghĩ trước khi áp dụng biện pháp nào”, ông Lộc cho biết.
Nguyễn Hiền
(Theo Dân trí)
2,344
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN