 |
Ảnh minh họa |
Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng một vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế xã hội và hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp
lớn, nhưng các doanh nghiệp này thường gặp những hạn chế nhất định về
vốn, công nghệ sản xuất, mặt bằng sản xuất,… nên đòi hỏi phải có những
chính sách hỗ trợ.
Để nhiều doanh nghiệp được miễn giảm thuế
Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, để hỗ
trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì sản xuất và công ăn việc làm
cho người lao động, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều cơ chế về
chính sách tài chính hỗ trợ cho khu vực này.
Về giải pháp thuế, Chính phủ đã trình và Quốc hội đã
thông qua việc giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2012
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã
ký ban hành Nghị định 60/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Nghị
quyết nói trên của Quốc hội.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn, để hỗ
trợ tối đa cho doanh nghiệp được hưởng chính sách giảm thuế, trong
Thông tư hướng dẫn Nghị định 60/2012/NĐ-CP đang được xây dựng, đối với
doanh nghiệp không đạt tiêu chí nhỏ và vừa nếu căn cứ vào tổng số lao
động, Bộ Tài chính dự kiến sẽ căn cứ vào vốn chủ sở hữu để xác định. Còn
đối với doanh nghiệp mới thành lập, căn cứ để xác định dựa vào vốn điều
lệ.
Theo ông Đỗ Hoàng Anh Tuấn, chỉ có như vậy mới có
nhiều doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế theo
Nghị quyết 29/2012/QH13.
Về nguồn vốn, cho đến nay, các ngân hàng thương mại
đã giảm lãi suất cho vay với doanh nghiệp nhỏ và vừa về phổ biến ở mức
11-13%/năm. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp vẫn cho rằng tiếp cận nguồn
vốn ngân hàng rất khó khăn.
Trong văn bản trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội tại
kỳ họp vừa qua, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng cho biết Ngân hàng Nhà
nước đang dự thảo Thông tư hướng dẫn các ngân hàng thương mại phối hợp
với Ngân hàng Phát triển Việt Nam triển khai thực hiện cơ chế bảo lãnh
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn.
Theo đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam sẽ bảo lãnh
một phần hoặc toàn bộ khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc đối
tượng được bảo lãnh vay vốn tại ngân hàng thương mại với mức cho vay tối
đa bằng 85% tổng mức đầu tư của dự án.
Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo ông Vũ Như Thăng, Viện trưởng Viện chiến lược và
Chính sách (Bộ Tài chính), cần tạo môi trường đầu tư và kinh doanh
thuận lợi, bình đẳng, minh bạch để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận
các nguồn lực và thị trường.
Để có thể đạt được mục tiêu trên thì bên cạnh những
biện pháp cụ thể để có thể tháo gỡ những khó khăn trước mắt, cần có
những giải pháp căn cơ trong trung và dài hạn hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Thực hiện kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
5 năm lần thứ nhất giai đoạn 2006- 2010, đã có 370.000 doanh nghiệp mới
thành lập. Tuy nhiên, theo đánh giá, kế hoạch giai đoạn 2006-2010 vẫn
còn một số tồn tại như hệ thống trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa còn
mỏng và thiếu, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ,
việc thống kê, đánh giá một số chỉ tiêu của kế hoạch gặp khó khăn.
Hiện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xây dựng kế hoạch phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011-2015.
Theo phương hướng xây dựng kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa giai đoạn 2011-2015, số doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới đạt
350.000 doanh nghiệp, để thời điểm vào cuối năm 2015, cả nước sẽ có tổng
cộng khoảng 600.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động. Khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa phấn đấu đóng góp khoảng 40% GDP; 30% tổng thu ngân
sách nhà nước, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo thêm khoảng 3,5-4
triệu chỗ làm việc mới trong giai đoạn 2011-2015.
Ước tính tổng kinh phí trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa không bao gồm
các chương trình đổi mới công nghệ khoảng 1.130 tỷ đồng. Trong đó, một
giải pháp đột phá là Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng để phát triển
sản xuất kinh doanh.
Theo các chuyên gia, việc phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa cần được thực hiện trên cơ sở phát huy nguồn lực, tiềm năng về
thiên nhiên và hoàn cảnh xã hội trên từng địa bàn, địa phương cụ thể. Từ
đó, mỗi đơn vị sẽ kết hợp sở trường, trình độ chuyên môn với nguồn nhân
lực, khả năng tài chính, dung lượng thị trường để tăng trưởng ổn định,
góp phần vào xuất khẩu và gia tăng liên kết giữa các doanh nghiệp nội
địa.
Thu Hà
3,887
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN