
Các lực lượng vũ trang đóng quân trên địa
bàn chủ động phối hợp chặt chẽ với địa phương làm tốt công tác dân vận. Ảnh
Mod.gov.vn
Trong những năm đổi mới vừa qua, cấp ủy,
chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân ở các cấp nghiêm túc thực hiện chủ
trương của Đảng về công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đã tạo được
chuyển biến tích cực, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, công tác dân vận của Đảng ở
vùng đồng vào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Việc quán triệt và triển khai
thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng ở nhiều nơi chưa kịp thời, hiệu quả
thấp; thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở còn hình thức; giải quyết những bức xúc
trong đồng bào còn chậm, chưa thỏa đáng. Chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng và
các dân tộc ngày càng lớn. Một số “đạo lạ” xâm nhập ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và diễn biến ngày càng
phức tạp. Cán bộ người dân tộc thiểu số nhìn chung thiếu và yếu. Công tác giám
sát, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về
lĩnh vực này chưa được chú trọng.
Nguyên nhân của hạn chế trên trước hết
là do các cấp ủy, tổ chức đảng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là người đứng
đầu chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo công tác này. Phương thức lãnh đạo của tổ
chức đảng, điều hành của chính quyền còn chậm đổi mới. Phương pháp vận động, tập
hợp đồng bào của mặt trận và các đoàn thể nhân dân chưa phù hợp với từng đối tượng,
từng dân tộc, từng vùng miền. Việc chăm lo bồi dưỡng, đào tạo và xây dựng cơ chế,
chính sách đối với đội ngũ cán bộ dân vận, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số
chưa được đầu tư đúng mức.
Để thực hiện tốt Nghị quyết sô 25-NQ/TW,
ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về công tác dân vận, tạo bước
chuyển biến mới trong công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số,
Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân các cấp
thực hiện tốt một số nội dung quan trọng sau đây:
1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy, tổ chức đảng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị đối với công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Xác định rõ công tác dân vận ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ rất quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của
cấp ủy, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Kịp thời nắm được tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số; trên cơ sở đó có giải pháp xử lý phù
hợp. Người đứng đầu cấp ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp phải thường
xuyên đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân. Các cơ quan thông tin đại
chúng chủ động định hướng dư luận xã hội và đấu tranh phòng, chống có hiệu quả
các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Các cấp ủy, tổ chức đảng vùng đồng bào
dân tộc thiểu số phải đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân
vận, góp phần thực hiện các mục tiêu của Đảng, Nhà nước về xóa đói, giảm tỉ lệ
hộ nghèo, nâng cao mức thu nhập; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
và đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số có chất lượng, tỉ lệ và cơ cấu hợp lý…
Mỗi cấp ủy từ tỉnh đến huyện, xã phải phân công một đồng chí ủy viên ban thường
vụ trực tiếp phụ trách công tác dân vận.
Triển khai thực hiện tốt Quyết định số
217 và 218 của Bộ Chính trị về công tác giám sát, phản biện và vận động nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thường xuyên kiểm tra, giám
sát chặt chẽ việc thực hiện công tác dân vận của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân; sơ kết, tổng kết các chủ trương của Đảng về công tác
dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận
trong các cơ quan nhà nước; rà soát, ban hành và thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ
trương của Đảng về công tác dân vận ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; tiếp
tục rà soát, bổ sung, sửa đổi những bất cập của hệ thống chính sách dân tộc phù
hợp với đặc điểm tự nhiên và xã hội của từng vùng, từng dân tộc. Quan tâm xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội thiết yếu, hỗ trợ đồng bào các dân tộc phát triển
sản xuất và nâng cao thu nhâp, ổn định đời sống.
Thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội, công tác điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất. Các cơ quan
nhà nước phải tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chính sách dân tộc ở
cở sở; xây dựng và công khai quy định về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân
của cán bộ, công chức, viên chức. Cơ quan nhà nước các cấp phải phân công lãnh
đạo, phụ trách công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số; thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc thực hiện chính sách dân tộc; đề cao trách nhiệm công tác dân vận của
cán bộ chính quyền vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các lực lượng vũ trang đóng
quân trên địa bàn chủ động phối hợp chặt chẽ với địa phương làm tốt công tác
dân vận.
3. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân
dân, hướng về cơ sở, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Cán bộ đoàn thể các cấp phải tăng cường tới cơ sở, bám sát cuộc sống người
dân; tổ chức các hoạt động để hướng dẫn đồng bào các dân tộc thiểu số vươn lên
xóa đói, giảm nghèo, đổi mới tập quán sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa,
xây dựng nông thôn mới. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, phản biện và chủ động
tham gia xây dựng các chính sách có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số trước
khi ban hành. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị-xã hội với chính quyền, lực lượng vũ trang trong công tác dân vận ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số với những nội dung cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Đề cao và
phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào. Xây
dựng, bổ sung quy ước, hương ước của xã, thôn, bản, buôn, ấp để xây dựng đời sống
văn hóa tiến bộ, văn minh phù hợp với từng địa phương, cơ sở.
Các phong trào thi đua vùng đồng bào dân
tộc thiểu số cần chú trọng tính thiết thực, hiệu quả; nội dung, hình thức thi
đua phù hợp với điều kiện và văn hóa từng vùng; phải thường xuyên kiểm tra,
đánh giá, sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời.
4. Phối hợp chặt chẽ giữa công tác dân vận
vùng đồng bào dân tộc thiểu số với công tác đối ngoại nhân dân trong bảo vệ
biên giới; đấu tranh chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết,
quan hệ thân tộc, đồng tộc của đồng bào vùng giáp biên giới của nước ta với các
nước láng giềng, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Tăng cường
giao lưu hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa giữa nhân dân hai bên biên giới;
thăm hỏi, chúc mừng nhân dịp lễ, tết, các sự kiện quan trọng của mỗi bên; tổ chức
kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới; đấu trang phòng, chống tội phạm, buôn lậu
qua biên giới, nâng cao nhận thức của đồng bào vùng dân tộc thiểu số về chủ quyền
lãnh thổ, ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác
và phát triển. Củng cố các cửa khẩu quốc gia, quốc tế bảo đảm việc đi lại, giao
thương hàng hóa của nhân dân phù hợp với
quy định của pháp luật nước ta và nước bạn.
Kịp thời phòng, chống âm mưu của các thế
lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và kích động
gây chia rẽ dân tộc, chống Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân.
5. Xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội
ngũ cán bộ dân vận; đổi mới phương thức công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
Chăm lo kiện toàn ban dân vận các cấp đủ
số lượng, cơ cấu, chất lượng theo các quy định. Bảo đảm tỉ lệ hợp lý cán bộ là
người dân tộc thiểu số trong các cấp ủy, tổ chức đảng, mặt trận, đoàn thể, nhất
là cán bộ chuyên trách công tác dân vận. Các bộ, ngành, các tổ chức chính trị -
xã hội liên quan nhiều đến công tác dân tộc cần tổ chức bộ phận và cán bộ
chuyên trách làm công tác dân tộc; lựa chọn và bố trí ít nhất có một cán bộ
lãnh đạo là người dân tộc thiểu số. Chú trọng công tác luân chuyển, đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí, sử dụng một cách hợp lý đội ngũ cán bộ dân vận là người dân tộc
thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ vùng đặc biệt khó khăn và cán bộ đã trải qua công
tác ở vùng biên giới.
Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ dân vận cho cán bộ làm
công tác dân vận. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên,
cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và cán
bộ làm công tác dân vận phải thực hiện phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói",
"nói dân hiểu", "hướng dẫn dân làm", "làm dân
tin" và phương châm "chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế
nhị, hiệu quả".
Có chính sách, chế độ đặc thù đối với
cán bộ Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
6. Tổ chức thực hiện.
Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến
cơ sở có trách nhiệm phổ biến, quán triệt và triển khai thực hiện tốt Chỉ thị
này.
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng
Chính phủ chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật và
các chiến lược về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tính khả thi
cao. Rà soát, bổ sung và cân đối các nguồn lực để ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng và triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp
với Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, Ban Dân vận Trung ương nghiên cứu xây dựng chiến
lược đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Đảng đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội quán triệt và
xây dựng chương trình hành động cụ thể, vận động nhân dân các dân tộc thực hiện
Chỉ thị.
Ban Dân vận Trung ương chủ trì, phối hợp
với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương và
các tổ chức đảng có liên quan hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra việc thực
hiện Chỉ thị, định kỳ báo cáo Ban Bí thư.
Theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ
7,220